Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hình tượng sóng- người phụ nữ đang yêu, hình tượng trung tâm, nổi bật của bài thơ:
+ Mượn sóng để diễn tả nỗi lòng, tình yêu, trái tim phức tạp, tha thiết
+ Sóng có phẩm chất, tính cách giống “em”
- Sóng, những suy nghĩ, trăn trở khi nghĩ về tình yêu
+ Tìm cội nguồn của sóng, và khát vọng muốn được hiểu mình, hiểu người mình yêu và tình yêu
+ Trái tim của tuổi trẻ khát khao yêu thương, quy luật tự nhiên
- Nỗi nhớ, sự chung thủy của người phụ nữ khi yêu
+ Bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ thương người yêu
+ Sự tin tưởng, đợi chờ chung thủy trong tình yêu
- Khát vọng tình yêu vĩnh cửu
+ Sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ trước cuộc đời dài rộng và tình yêu lớn lao
+ Sóng là biểu tượng cho tình yêu trường tồn, mãnh liệt
Sóng và em có quan hệ tương đồng, sóng ẩn dụ cho tình yêu cũng như tâm hồn nhân vật “em”
+ Sóng và em lúc hòa hợp, lúc tách rời
+ Kết cấu song hành làm tăng hiệu quả của nhận thức, khám phá chủ thể trữ tình, tình yêu thủy chung, bất diệt
- Kết cấu bài thơ là kết cấu liền mạch của suy nghĩ, cảm xúc: cô gái nhìn ra biển cả, quan sát và suy ngẫm về tình yêu, những biến chuyển tinh tế
Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn, với những con sóng
+ Sự đa dạng muôn màu sắc, trạng thái: dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ
+ Không rõ cội nguồn, không thể định nghĩa, lý giải được
+ Sự mãnh liệt, sâu sắc trong khát khao sống, yêu thương
+ Sự chung thủy, gắn bó bền chặt
→ Sóng và em là sự cộng hưởng trọn vẹn trong suốt bài thơ, trải qua nhiều cung bậc tình yêu để hòa quyện vào nhau
→ Hình tượng sóng là ước vọng đời thường trong tình yêu của người phụ nữ
Qua bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khao khát yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, để “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Đó là những nét mới mẻ, “hiện đại” trong tình yêu.
Tâm hồn người phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng: “vì tình yêu muôn thuở - Có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc
I. Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, dẫn vào yêu cầu của đề
II. Thân bài:
1. Khái quát:
* Vị trí, xuất xứ
* Hoàn cảnh sáng tác
* Vẻ đẹp người phụ nữ nói chung và biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua 2 nhân vật trong tác phẩm.
- Người phụ nữ từ xưa tới nay thường có phẩm chất: thủy chung, tần tảo, đảm đang, công dung ngôn hạnh,...
- Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua hai nhân vật:
+ Bà cụ Tứ: người mẹ thương con, giàu tình cảm, từng trải nên bà rất thông cảm cho Tràng và Thị,...
+ Thị: giàu nghị lực sống, giàu niềm tin, nữ tính, tần tảo.
2. Cụ thể
a. Nhân vật bà cụ Tứ:
* Thương Tràng vì nhà nghèo mà không lấy được vợ cho con. Nhưng khi Tràng lấy được vợ thì lại thương con "không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cái tao đoạn này không".
* Người mẹ giàu tình cảm:
- Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ : ngạc nhiên, ngỡ ngàng, chấp nhận, gửi gắm và gieo niềm tin vào con.
- Động viên thị và đối xử với người con dâu mới nhẹ nhàng -> tình thương vô bờ của những người đồng cảnh.
* Người giàu niềm tin:
- Thức dậy quét dọn sân vườn cho quang quẻ với niềm tin là nhà cửa sạch sẽ thì mới vui tươi, phấn khởi lên được
- Bữa cơm ngày đói: ngày đói phải ăn cám mà bà gọi là "chè khoán"
- Nói với Tràng toàn những chuyện vui: nuôi lấy đôi gà, chẳng mấy chốc sẽ có ngay đàn gà.
2. Nhân vật thị:
* Người phụ nữ giàu nghị lực sống:
- Mới đầu thị ngồi vêu ra ở cửa kho để mong nhặt hạt rơi hạt vãi và trông xem có ai mướn không.
- Vin lấy câu đùa của Tràng mà chạy lại đẩy xe bò với Tràng thật.
- Điệu bộ chao chát, chỏng lỏn, trách Tràng là điêu, là nuốt lời
=> thực chất đều là biểu hiện của người giàu nghị lực sống
* Thị còn biểu hiện sự nữ tính, hiền thục
- Trên đường về nhà Tràng, bị trẻ con trêu -> che nón -> ngượng ngùng
- Về nhà Tràng, chỉ dám ngồi ghé ở mép giường. Khi gặp bà cụ Tứ thì đứng bật dậy, tay vân vê tà áo -> lễ phép
- Chứng kiến cảnh nhà Tràng (căn nhà siêu vẹo đứng rúm ró ở góc vườn um tùm những cây cỏ dại) thì nén tiếng thở dài -> không biểu lộ ra bên ngoài -> kín đáo, tế nhị
- Sáng hôm sau dậy sớm nhổ cỏ, quét nhà, gánh nước -> tần tảo, chịu khó đảm đang
- Bữa cơm ngày đói chỉ có chè khoán, mặt tối sầm, mọi người tránh nhìn vào mặt nhau -> thị điềm nhiên và vào miệng ăn. -> tế nhị
* Người phụ nữ giàu niềm tin, khát vọng
- Thị kể chuyện ở mạn Thái Nguyên, Hà Giang người ta phá kho thóc Nhật
=> Gieo vào óc Tràng niềm tin về việc gia nhập vào đoàn quân ấy
=> Hướng tới cách mạng là con đường thoát đói nghèo và đổi đời.
3. Đánh giá
- Khẳng định lại phẩm chất của bà cụ Tứ và thị.
- Những vẻ đẹp tâm hồn của 2 nhân vật này như hoàn thiện những mảnh ghép còn thiếu tạo nên bức tranh về người phụ nữ Việt Nam. Qua những vẻ đẹp này, ta nhớ tới một chị Dậu yêu chồng thương con, giàu nghị lực sống (Tắt đèn - Ngô Tất Tố), một cô Mị trẻ trung xinh đẹp, có sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mạnh mẽ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài), một người đàn bà hàng chài cam chịu nhẫn nhục và có những triết lí sống riêng (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu),... Những người phụ nữ Việt Nam đẹp từ trong văn học ra đến ngoài đời thực. ...
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật "bà cụ Tứ" – mẹ anh Tràng - người "nhặt vợ".
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng", khẽ mắt "lèm nhèm", "khuôn mặt bủng beo, u ám". Những hành động cử chỉ của cụ "nhấp nháy hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật", "lễ mễ" cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng".
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình". Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không". Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ :"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm long thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ" xăm xắn quét tước nhà cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa trời"này lại là người nói về tương lai nhiều nhất" cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh khác hẳn ngày thường". Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám " chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần ( Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là những bức tranh thu nhỏ về hiện thực xã hội Việt Nam trong thời kì hấp hối của chế độ thực dân, phong kiến trước Cách mạng tháng Tám 1945 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì. Bao phủ lên những bức tranh đó là gam màu xám lạnh, thê lương của cuộc sống khốn đốn, cùng cực của tầng lớp dân nghèo ở miền xuôi và miền ngược. Kim Lân, Tô Hoài tập trung thể hiện số phận bất hạnh của số đông phụ nữ – những nạn nhân đáng thương qua hình ảnh bà cụ Tứ, người "vợ nhặt" và Mị – cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lí Pá Tra.
Nội dung tác phẩm Vợ nhặt kể về cuộc sống bức bối, ngột ngạt của nhân dân ta năm 1945 với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người. Đó chính là hậu quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước số phận bất hạnh của những con người nghèo khổ trong xã hội đương thời, nhất là đối với phụ nữ. Nhân vật bà cụ Tứ mẹ anh Tràng và chị "vợ nhặt" được tác giả miêu tả bằng sự thương cảm chân thành đã gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Tội nghiệp thay cho người con gái mà anh Tràng "nhặt" về làm "vợ". Sinh ra làm người, ai cũng có một cái tên dù đẹp hay xấu. Thế nhưng chị ta không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, không cha mẹ, anh em. Không ai biết gốc gác quê hương, nhà cửa của chị ta ở đâu. Về hình thức, chị ta giống như bao kẻ đói khát khác: ...áo quần tả tơi như tổ đỉa... trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt... Chị là hiện thân của hàng triệu nông dân bần cùng, tha phương cầu thực kiếm sống qua ngày, để rồi gục chết bất cứ lúc nào nơi đầu đường xó chợ.
Chị nhận lời làm vợ anh Tràng giống như một trò đùa, hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tâm phào đâu có hai bận giữa chị với Tràng, người đàn ông nghèo khổ làm nghề kéo xe thuê. Gặp lại Tràng, chị ta đang đói lắm nên sỗ sàng vòi anh đãi ăn bánh đúc. Chị cặm cụi ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Ăn không kịp thở, ăn mà không nói tiếng nào. Ăn như thế là đói đã lâu rồi nên quên cả ý tứ, sĩ diện, thẹn thùng. Nhìn cảnh ấy, Tràng động lòng thương, bèn bảo : Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng nói giỡn chơi, ai dè chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Một người đàn ông mới quen sơ sơ đôi lần, nay hào phóng đãi một bữa no nê, ngoài ra chẳng biết tí gì về anh ta; chỉ nghe nói là chưa có vợ, ai biết thật giả thế nào, ấy thế mà chị ta dám đi theo mà không hề đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh, nhẹ dạ quá chăng? Mặc kệ! Trước mắt, cứ theo anh ta để được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau. Vợ chồng là chuyện lâu dài, trong tình cảnh sống nay chết mai, biết thế nào mà nói trước. Có lẽ chị ta chỉ nghĩ đơn giản như vậy. Thế là Tràng đã "nhặt" được "vợ", giống như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường (!). Tội nghiệp biết bao nhiêu cho người "vợ nhặt" ấy, vì xã hội phong kiến khinh bỉ và không chấp nhận loại "vợ" theo không như vậy.
Chị ta theo Tràng về cái xóm ngụ cư: Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. Quả là một khung cảnh ngập tràn tử khí! Con người đang mấp mé bên vực thẳm của cái chết.
Về đến nhà Tràng, chị "vợ nhặt" cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Tràng mời ngồi, sao chị ta lại không dám ngồi cho đàng hoàng, ngay ngắn? Thì ra cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy là cái thế của lòng chị, đời chị. Chị băn khoăn không biết chỗ này có phải là chỗ của chị hay không ? Mái nhà xa lạ này liệu cỏ phải là chỗ dung thân của chị ? Căn nhà xơ xác, dúm dó của mẹ con Tràng chắc cũng không khỏi làm cho chị thất vọng. Đúng là cảnh "đồ nát đụng nhau", không biết được mấy ngày?! Mặt chị bần thần vì mải nghĩ đến chuyện thành vợ bỗng dưng của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực. Làm vợ, làm dâu mà thảm hại đến thế này ư?! Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Nỗi buồn tủi không thể nói thành lời. Trăm mối ngổn ngang trong lòng. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà chảy ngược vào tim nên càng đau, càng tủi. Nhà văn Kim Lân viết về người "vợ nhặt" với ngòi bút chan chứa xót thương. Trong chế độ phong kiến thực dân thời ấy, có bao nhiêu người phụ nữ phải chịu thân phận bất hạnh như thế ? Ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội, ý nghĩa nhân đạo sâu xa của tác phẩm ẩn chửa trong sổ phận của nhân vật đáng thường này.
Hình ảnh bà cụ Tứ bổ sung cho hình ảnh chị "vợ nhặt" để hoàn chỉnh số phận tăm tối của phụ nữ nói chung trong xã hội đương thời. Có thể nói nhân vật này tuy là phụ nhưng lại chiếm được cảm tình của người đọc bởi nét chân phương của một bà mẹ nghèo rất đỗi thương con, bởi lòng nhân hậu rất đáng quý trọng. Khi thấy người con gái lạ mặt ngồi ở giường con trai mình, bà cụ Tứ ngạc nhiên lắm, chẳng hiểu ra làm sao cả. Nhưng đến lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà vỡ lẽ ngay: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình... Hóa ra là thằng con trai mình cũng đã kiếm được một cô vợ, dù là trông dở người dở ma. Bà tủi phận làm cha làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con. Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra cả : Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cải mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà vừa vui mừng, vừa lo lắng: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ? Nhưng ngẫm tới thân phận nghèo khó của mình, bà lại tự an ủi: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...
Nghĩ thế nên bà vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, gọi chị là con, xưng là u và nhìn cô con dâu mới bằng ánh mắt xót thương, thông cảm.
Bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi hàng dâu chĩ có món cháo loãng với muối hột và chè cám, ấy thế nhưng bà cụ Tứ cố tỏ ra vồn vã, tươi cười, chỉ toàn nói tới chuyện vui. Bà khen cháo cám ngon đáo để, nhà khác chẳng có mà ăn. Chao ôi ! Đói đến mức nào thì ăn cám thấy ngon ?! Bà từ tốn nói với con trai và con dâu : Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mậy liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khả... Biết thể nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau... Bà cảm động bày tỏ ý muốn và nỗi khổ tâm của mình: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đẩy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Hình ảnh bà mẹ già nua cố bấu víu, hi vọng vào tương tai thật đáng thương và cũng đáng quý biết bao!
Nội dung truyện ngắn vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông ở vùng cao Tây Bắc dưới ách thống trị tàn bạo của bọn lang đạo chúa đất và thực dân Pháp. Nhân vật chính của truyện là Mị. Vì nghèo khổ, bố mẹ Mị phải vay tiền của thống lí Pá Tra để làm đám cưới. Mãi cho tới năm mẹ Mị qua đời vì bệnh tật và Mị cũng đã lớn khôn mà bố Mị vẫn không có tiền trả nợ. Mị là cô gái đẹp người đẹp nết, được nhiều chàng trai trong vùng đem lòng yêu mến. Lẽ ra Mị phải được sống trong tình yêu và hạnh phúc, thế nhưng chỉ vì món nợ không thể trả nổi của gia đình nên Mị bị bố con tên thống lí Pá Tra gian tham và tàn bạo bắt về làm "con dâu trừ nợ". Từ cuộc đời của người con gái xinh đẹp mà bất hạnh này, nhà văn Tô Hoài đã phản ánh chân thực và sinh động kiếp sống đau thương, tủi nhục của người phụ nữ vùng cao thuở trước.
Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, sống trong nhà thống lí Pá Tra, Mị đã rơi vào cảnh đoạ đày của địa ngục trần gian. Cô đau đớn đến tuyệt vọng: Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí.
Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh, buông xuôi cuộc đời cho số phận. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí Pá Tra là chuỗi dài đoạ đày, đau khổ. Danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị là đày tớ không công, là nô lệ mãn đời, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Suốt ngày, Mị phải làm việc quần quật không lúc nào ngơi; đến đêm lại phải thức để hầu hạ thằng chồng vũ phu, tàn ác. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô thành người nhẫn nhịn và cam chịu. Mọi cảm xúc dường như đã nguội lạnh. Cô gái Mông xinh đẹp, hồn nhiên đa tình đa cảm thuở nào giờ đây ủ rũ, héo hắt, sống âm thầm như chiếc bóng, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
1. Giải thích:
- “Người đọc muốn”: thi sĩ đang soi xét mình dưới góc nhìn của 1 người thưởng thức.
- “Thơ phải xuất phát từ thực tại”: Thơ ca nói riêng và văn học nói chung đều đi ra từ hiện thực cuộc sống. Cuộc sống là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu và cũng là cái đích cuối cùng của thơ ca nghệ thuật.
- “Nhưng phải đi qua 1 tâm hồn và trí tuệ”:
+ Tâm hồn : Tâm
+ Trí tuệ: Tài
- Văn học phản ánh hiện thực nhưng qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ nên có thể nói. Nghệ sĩ sao có thể viết một tác phẩm- sản phẩm của thế giới tinh thần của mình nếu tâm hồn trơ như đá với cuộc đời. Thơ khởi phát từ lòng nhà thơ. Nhưng để tạo ra thi phẩm có giá trị tình cảm cần phải dung hoà với trí tuệ, sự sáng tạo. Trí tuệ tạo nên giá trị, sức sống của tác phẩm. Tình cảm để chạm tới ngóc ngách sâu nhất nơi trái tim người đọc rung lên, thổn thức cùng cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
+“ cá thể”: nét phong cách nghệ thuật độc nhất của người nghệ sĩ soi bóng dưới trang thơ
+“ độc đáo”: nét mới lạ thu hút độc giả
+ “Phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể độc đáo càng hay”: thơ chỉ xuất hiện những tâm hồn đồng điệu không thể dung chứa những thi phẩm giống hệt nhau. Bởi bên trong mỗi người có 1 cái tạng riêng thông qua đó thế giới được tái tạo với tài năng thiên bẩm, sự trắc ẩn và tinh tế. Vì vậy, mỗi đứa con tinh thần của thi sĩ được thai nghén đều phải mang những nét riêng biệt độc đáo sáng tạo và dấu ấn cá nhân.
=> Một tác phẩm được ra thời đều hút chất dinh dưỡng từ mạch nguồn cuộc sống mà lớn lên. Hàm chứa trong tác phẩm phải là sự tìm tòi khám phá sâu sắc của một khối óc sáng dạ và một trái tim ấm nóng để ra đời tác phẩm chỉnh thể giàu giá trị thẩm mĩ và nội dung.
Phân chia luận điểm :
LĐ1: Việt Bắc là bài thơ xuất phát từ hiện thực:
- Hoàn cảnh ra đời của nó
- Hình ảnh thơ gắn với những trải nghiệm thực tế của tác giả
LĐ2: Việt Bắc thể hiện tâm hồn và trí tuệ của Tố Hữu:
- Sự gắn bó, tình cảm sâu nặng với người dân Việt Bắc “ Ta về mình có nhớ ta …. Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
- Nỗi nhớ cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc: bức tranh tứ bình
- Cái nhìn yêu thương giành cho con người Tây Bắc lam lũ vất vả “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng”
- Tình đồng chí “Nhớ khi giặc đến giặc lùng….Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
- Nghĩa đồng bào “Ta đi ta nhớ những ngày…. Bát cơm sẻ nửa chăn xui đắp cùng”
LĐ3: Việt Bắc in nét đẹp độc đáo, cá thể trong PCNT của Tố Hữu:
- Nét độc đáo cá thể: PCNT: trữ tình chính trị
- Độc đáo:
+ Nhạc điệu ca dao dân ca
+ Kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên ngọt ngào
+ Ngôn ngữ quen thuộc giàu tính nhạc
+ Các biện pháp tu từ được kết hợp sử dụng khéo léo gây ấn tượng với người đọc
Phát biểu về hội thảo một cuốn sách:
- Tựa đề cuốn sách, tác giả, xuất xứ, nội dung
- Trình bày nội dung thông điệp cuốn sách gửi tới bạn đọc
- Trao đổi về tác động của cuốn sách với giới trẻ
- Nhận xét xu hướng của giới trẻ khi tìm đọc sách, những vấn đề mà giới trẻ quan tâm
Ý nghĩa bốn câu đề từ: Tổ quốc vẫy gọi và tâm hồn nghệ sĩ hướng về nhân dân, về cuộc sống sôi nổi đang diễn ra trên mọi miền đất nước. Về với Tây Bắc cũng là về với nhân dân, về với chính mình, về với ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Đáp án cần chọn là: B
Bài thơ là lời tự bộc bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu:
- Tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, khao khát yêu thương
- Là người thấu hiểu, chung thủy với tình yêu
- Tâm hồn bộc trực, thành thực bày tỏ tình yêu nhưng vẫn đầy nữ tính, chung thủy