K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

9 tháng 1 2019

Các bạn biết không, họ hàng nhà chúng tôi có chiều cao trung bình từ mười đến ba mươi mét và có thể hơn thế nữa. Bất kì ai trong dòng tộc đều khoác chiéc áo nâu trông rất sang trọng. Họ hàng chúng tôi có rất nhiều cành cây vươn ra; trên đó là những chiếc lá xanh mượt, không có lông, phiến dày có hình bầu dục dài khoảng hai mươi lăm xentimét. Tụ tập ở "nách cánh tay" với bàn tay là những bông hoa của chúng tôi . Cánh hoa có màu trắng ngà, hình ống vòng cao từ sáu đến bảy xentimét. Mỗi năm khi mùa thu về, loài cây hoa sữa chúng tôi lại đơm hoa. Họ hàng nhà chúng tôi mỗi lần ra hoa thì lại tô điểm cho đường phố và đem lại một hương thơm đặc biệt cho con đường đó. Khắp các con đường nơi các đô thị lớn, "hương hoa sữa nồng nàn, đắm đuối" đã gợi thi hứng cho các nhà thơ, nhạc sĩ để tạo nên những giai điệu bài hát tuyệt vời. Nào là bài hát " Hoa sữa" viết cho bộ phim " Hà Nội mùa chim làm tổ". Các bạn nghe thử một vài câu nhé!

"Em vẫn từng đợi anh
Như hoa từng đợi nắng
Như gió tìm rặng phi lao
Như trời cao mong mây trắng...
...Kỉ niệm ngày xưa vẫn cón đây đó
Những bạn bè chung, những con đường nhỏ
Hoa sữa vẫn ngọt ngào đầu phố đêm đêm..

Và còn trong nhiều bài hát khác nữa, đã có bóng dáng cây hoa sữa chúng tôi "Mùa thu, khi hoa sữa thơm hương mạt hồ, khi em mới biết yêu lần đầu, những kỉ niệm không bao giờ quên"... Nhìn chung, con người trồng cây hoa sữa tôi để làm bóng mát, làm đẹp cảnh quan môi trường. Chúng tôi góp một phần không nhỏ vào việc thanh lọc thán khí, giúp cho không khí đô thị trong lành.

Tôi chắc rằng rất ít người biết về một công dụng lớn nữa của chúng tôi. Ở một số nước trên thế giới, chúng tôi được làm thuốc chữa bệnh rất hiệu quả. Các bạn có biết theo y học cổ truyền của nước ta thì vỏ của chúng tôi được làm thuốc chữa bệnh như thiếu máu, sốt rét và tiêu chảy. Ở Ấn Độ, con người lấy rễ cây của họ nhà sữa chúng tôi để chữa bệnh viêm gan; vỏ được làm loại thuốc bổ có vị đắng chữa trị nóng sốt, tiêu chảy, kiết lị và các chứng bệnh sốt rét. Ở Trung Quốc, chúng tôi được gọi là cây tương bì mộc. Người dân bên đó thường lấy rễ, vỏ và hoa của chúng tôi để chữa bệnh thương hàn, tiêu chảy và sốt rét. Tại một viện dược học nổi tiếng thế giới ở Pháp đã chứng minh được cây hoa sữa có khả năng chữa bệnh ung thư và bướu cổ. Chỉ cần pha nhựa của cây hoa sữa với nước muối, chích dưới da liên tục, đều đặn trong vòng hai mươi ngày thì các tế bào đó sẽ bị ngăn chặn.

Như vậy, qua lời giới thiệu về họ hàng mình như trên, có lẽ các bạn cũng biết và hiểu thêm về lợi ích to lớn của chúng tôi với đời sống hàng ngày rồi chứ. Vì cũng là một loài thực vật nên tôi rất sợ khi bị các bạn bẻ những "cánh tay" , cướp đi những bông hoa- là những đứa con của chúng tôi. Do đó, chúng tôi rất mong được con người sẽ chăm sóc, tưới nước cho chúng tôi thường xuyên, không bẻ cành, bứt lá, làm mất mĩ quan đô thị và tôi cũng rất mong được con người trồng thêm ở ven đường. Có thế chúng tôi mới có thể phát huy được tác dụng và lợi ích của mình nhiều hơn. À,còn một điều nữa ! Tôi nói nhỏ nghe:đừng trồng chúng tôi quá nhiều ở một đường phố vì mỗi lầnra hoa, chúng tôi sẽ làm cho các bạn rất khó thở đấy.

Vậy đấy, cây hoa sữa của chúng tôi là loài cây bóng mát, làm đẹp cho môi trường đô thị, cũng là loài cây dược liệu có giá trị. Tôi tin rằng trong tương lai ngành y học phát triển hơn, tôi sẽ góp sức mình cải thiện đáng kể cho việc cứu chữa các chứng bệnh nan y cho con người. Các bạn hãy chờ nhé!

9 tháng 1 2019

cảm ơn cậu nhiều nè =) vui

5 tháng 9 2016
 Giới thiệu về cây Hoa Sữa 
Cây hoa sữa, hay còn gọi là mò cua, mù cua (tên khoa học: Alstonia scholaris; đồng nghĩa: Echites scholaris) là một loài thực vật nhiệt đới thường xanh thuộc Chi Alstonia, họ La bố ma (Apocynaceae).
Phân bố
Cây hoa sữa có nguồn gốc từ các khu vực:
Trung Quốc: Quảng Tây (tây nam), Vân Nam (nam)
Tiểu lục địa Ấn Độ: Ấn Độ; Nepal; Sri Lanka
Đông Nam Á: Campuchia; Myanma; Thái Lan; Việt Nam; Indonesia; Malaysia; Papua New Guinea (Quần đảo Solomon); Philippines
Australia: Queensland
Cây cũng được trồng tại một số khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.


Mô tả
Cây hoa sữa là một cây thường xanh có thể đạt chiều cao lên đến 40 m. Vỏ cây màu xám gần như không có mùi, có vị rất đắng và khi cho vào miệng thì có cảm giác sàn sạn. Vỏ cây có nhựa dính màu trắng sữa, cũng có vị đắng.
Cây hoa sữa là cây lá rộng. 5 đến 7 lá tạo thành 1 vòng xoắn quanh nhánh cây (hiếm gặp hơn là 4-10 lá tạo thành 1 vòng). Các lá đơn có chiều dài từ 9 đến 20 cm và chiều rộng từ 2 đến 5 cm. Mặt trên của lá thường bóng, mặt dưới xám, trong khi viền lá thì trơn tru. Cuống lá dài từ 0,5 đến 3 cm.
Cuống hoa dài khoảng 2 đến 5 mm. Các hoa lưỡng tính không lộ ra và nhỏ. 5 Lá Đài dài 2 mm. 5 cánh hoa màu vàng chanh hợp thành một ống dài khoảng 6 mm. So với các loài khác trong Chi thì không có đế hoa hình đĩa. Nó chỉ là một vòng tròn với 5 nhị hoa. Mùa hoa chủ yếu giữa tháng 6 và tháng 11.
Quả đại mọc theo cặp, hơi lượn sóng hoặc cong, dài từ 30 tới 60 cm, rộng từ 2 đến 5 mm và chứa nhiều hạt hình chữ nhật. Hạt có lông ngắn và nhỏ, đầu cuối có túm lông dài 1,5-2 cm. Các quả chín từ tháng 12 đến tháng 5.



Sử dụng

Tại Sri Lanka, gỗ cây hoa sữa được sử dụng làm quan tài, trong khi trước đây ở Đông Nam Á loại gỗ này được dùng để làm giấy da. Gỗ cây hoa sữa cũng đã được dùng để làm bảng viết cho học sinh, vì vậy có tên gọi là “scholaris”.
Vỏ cây được sử dụng chủ yếu trong y học. Nó được coi là một loại thuốc bổ và hạ sốt. Nó được sử dụng trong y học Ayurvedic (Ấn Độ) cũng như đối với sốt, sốt rét, bệnh phong, bệnh ngoài da, ngứa, khối u, ung loét mãn tính, hen suyễn, viêm phế quản, suy nhược cơ thể và đặc biệt đối với các triệu chứng về đường ruột, dạ dày như tiêu chảy, kiết lỵ hoặc khó tiêu.
Lá cây sắc lên được sử dụng chống lại bệnh tê phù.
Hạt có tác dụng kích thích tình dục và tinh thần: Nghiền khoảng 2 gam hạt, sau đó ngâm trong nước để qua đêm. Uống nước sau khi đã được lọc.
Ta có thể tìm thấy trong các chợ châu Á vỏ cây dưới dạng miếng dày 1,5 cm, rộng 3-5 cm và dài 7-12 cm. Chúng có màu nâu hồng bên ngoài, bên trong thì sáng hơn với các hình sọc hoặc hình hạt màu vàng nhạt. Vỏ cây cũng được sử dụng để nhuộm quần áo từ len, sợi bông ra các gam màu vàng khác nhau.


Thành phần

Vỏ cây có chứa một số ancaloit khác nhau, ví dụ Ditamine, Echitenine và Echitamine.Các ancaloit đã được sử dụng thay thế cho quinine, chất có tác dụng hạ sốt. Những chất này đã được phát hiện khoảng năm 1880. Ditamine (C16H19O2) lần đầu tiên được lấy từ vỏ cây bởi Jobst và Hesse vào năm 1875, đó là một loại bột màu trắng, có vị hơi đắng. Tuy nhiên nó chỉ được lấy ra được từ 0,02% vỏ cây đã được xử lý, và vì vậy mà chưa bao giờ được dùng làm thuốc hạ sốt. Echitamine lần đầu tiên được lấy ra từ vỏ cây bởi Harnack và Hesse một lần nữa lại là người tìm ra công thức, đó là C22H28N2O4. Hesse cũng đã phát hiện ra chất Echitenine màu nâu, vô định hình (C20H27NO4). Bên cạnh những ancaloit này, các chất khác cũng được lấy ra từ vỏ cây, trong đó có các axit béo, axit kết tinh và các chất dạng nhựa mỡ khác giống với nhựa của các loại cây khác.


Đặt tên gọi
Tên Chi: Alstonia
Tên Loài: Scholaris
Tên Chi „Alstonia“ được đặt theo tên của giáo sư thực vật học người Edinburgh Charles Alston (1685-1760). Chi Alstonia bao gồm khoảng 43 loài phổ biến ở tất cả các khu vực nhiệt đới. Rất khó phân biệt Alstonia Scholaris (cây Hoa Sữa) với các loài khác cùng Chi, và vì vậy thường hay bị nhầm lẫn với nhau. Loại cây nổi tiếng nhất trong Chi Alstonia là Alstonia Constricta.
Tên Loài „Scholaris“ có nguồn gốc từ tiếng Latinh, có nghĩa là „Học sinh“ hay „Sinh viên“, bởi vì theo truyền thống gỗ cây này được dùng làm bảng viết. Dân địa phương gọi cây này là cây ma và được xem là nơi cư trú của ma quỷ. Do đó thành viên một số bộ tộc thường tránh ngồi hoặc đi dưới những cây này.
Các tên gọi khác cho cây Hoa sữa: Echites malabarica Lam., Echites scholaris L., Pala scholaris (L.) Roberty.
Một số tên gọi thông thường khác: cây vỏ Quinine Úc, cây Vỏ Đắng, cây Bảng Đen, Chatian (Tiếng Hindi), Chatiun, Chattiyan, Chhatim (Bengali), chhation, Daivappala, Devil tree, Devil’s tree, Dirita, Dita (Tagalot), Dita Bark Tree, Ditta, Elilampala, Elilappalai, Maddale (Kannada, Nam Ấn Độ), Milky pine (Úc) Nandani, Pala (Malayam, Tamil), Palai, Palimara, Pulai, Saittan ka jat, Saptaparna (Tiếng Phạn: „bảy lá“), Saptachadah, Saptaparnah, Saptaparni, Satvin (Tiếng Marathi: „bảy lá“), Schulholzbaum (Tiếng Đức: „Cây gỗ trường học“), Shaitan (Tiếng Ả-rập: „Ma quỷ“), Shaitan wood, Tanitan, Weiss.
haha
5 tháng 9 2016

thanks !

 

7 tháng 12 2016

Dù là biểu tượng cho mùa xuân của phương nam nhưng hoa mai không mang dáng vẻ uy nghi, bề thế như một số loài cây quý khác. Mai mộc mạc, nhẹ nhàng, có chút đổi phóng khoáng như chính con người miền Nam vậy. Cây mai vốn là một loại cây rừng. Ngày xưa, khi đi khai khẩn đất phương nam, ông cha ta tìm thấy một loại hoa rừng cũng có năm cánh, cũng nở vào dịp Tết như hoa đào nên đem về nhà chưng để tưởng nhớ về cái Tết nơi quê nhà. Từ đó, chưng hoa mai đã trở thành phong tục ngày Tết của mỗi gia đình miền Nam. Cây mai có rất nhiều loại. Mai vàng là loài thường thấy nhất. Mai vàng thuộc họ hoàng mai. Cành mai có phần uyển chuyển, mềm mại hơn cành đào. Loài cây này thường rụng lá vào mùa đông, đến mùa xuân thì bắt đầu nở hoa. Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào. Khi sắp nở, nụ mai mới phô màu vàng tươi thắm. Hoa mai mang một vẻ đẹp nồng nàn, ấm áp của khí hậu miền Nam. Cánh mai tỏa hương thơm thoang thoảng, kín đáo. Hoa mai mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành. Sau khi nở hoa, cây lại còn cho quả màu đỏ nhạt, bóng như ngọc. Ngoài ra, còn có nhiều loại mai được các gia đình Việt Nam rất ưa chuộng, dùng làm cây kiểng trong vườn. Đầu tiên phải kể đến là loài mai tứ quý có thể ra hoa cả bốn mùa. Điều đặc biệt là hoa mai tứ quý nở lần đầu có năm cánh màu vàng nhưng sau đó, các cánh hoa rơi rụng dần rồi năm đài hoa đổi thành màu đỏ, trông như một bông hoa mai màu đỏ, rất đẹp. Đó là lý do vì sao mai tứ quý còn có tên gọi là nhị độ mai, nghĩa là hoa mai nở hai lần, trước vàng sau đỏ. Còn có loài mai chiếu thủy thân hình bé nhỏ, cho những chùm hoa màu trắng bé xinh xinh, tỏa hương thơm dịu dàng. Chúng thường được người ta trồng trên các hòn non bộ. Dù họ nhà mai đa dạng và phong phú, nhưng hoa mai nào cũng được con người xem như biểu trưng của sự tinh khiết, thanh bạch, của tấm lòng tri ân, tri kỷ. Hơn nữa, hoa mai còn được cho là mang đến sự may mắn nếu cây mai bắt đầu nở hoa vào đúng thời khắc giao thừa. Vào dịp Tết, trong mỗi nhà người dân Nam bộ, cây mai hay cành mai luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Nếu thiếu sắc mai vàng thì có lẽ cái Tết miền Nam sẽ không thể trọn vẹn được. Người ta có thể trồng mai trong bồn, trong chậu hay ngoài vườn đều được. Cây mai rất ưa ánh sáng và đất ẩm. Thế nên, mỗi khi gần đến dịp Tết, chỉ cần khí hậu ấm áp, ẩm ướt là hoa mai nở rộ. Nhưng chưa đến giao thừa mà hoa mai đã nở sớm thì trong ba ngày Tết hoa mai rụng sẽ bị cho là điềm xui và cây mai sẽ trông không đẹp nữa. Vì thế, các nghệ nhân trồng mai trong dịp cận Tết luôn bận rộn chăm sóc cho vườn mai của mình, dùng mọi cách để giữ sao cho hoa mai nở rộ vào đúng ba ngày Tết, mang đến may mắn cho mọi nhà. Ngoài ra, các nghệ nhân còn dùng kỹ thuật ghép để tạo ra những cây mai cho hoa rất nhiều cánh. Thậm chí còn có nhiều hoa mai màu khác nhau nở trên cùng một cây. Quả thật, bàn tay kỳ diệu của con người đã góp phần giúp họ nhà mai thêm đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Mai vàng không những đẹp mà còn tượng trưng cho nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta. Hoa mai đối với miền Nam cũng như hoa đào đối với miền Bắc, đều là những loài hoa gắn liền với truyền thống dân tộc. Có lẽ vì thế, dù đi đến bất cứ phương trời nào, chỉ cần nhìn thấy sắc mai vàng là những người con miền Nam chợt cảm thấy ấm lòng như đang ở chính quê hương của mình.

 

28 tháng 9 2021

Tham khảo nha:

Nhắc đến những loài cây được trồng phổ biến trong vườn nhà người dân Việt Nam ta, không thể không kể đến cây chuối – loài cây nổi tiếng với công dụng triệt để của nó.

Chuối bắt nguồn từ Đông Nam Á và Úc. Nay, chuối được trồng rộng rãi hơn và hiện là loài cây ăn quả được trồng phổ biến nhất ở vùng nhiệt đới trên toàn thế giới. Chuối thường được trồng ở nông thôn và các vùng miền núi, thường được trồng cạnh bờ sông bờ suối để cung cấp đủ nước cho đặc tính ưa nước của cây. Thân chuối là thân giả với dáng thẳng đứng và lớp ngoài nhẵn bóng, được tạo thành từng nhiều bẹ xếp lớp vào nhau, bẹ ở ngoài có màu sẫm hơn màu của bẹ ở trong. Lá chuối to, gân lá dày, khi còn non sẽ có màu xanh nõn ăm ắp nước đến khi về già lá sẽ chuyển thành màu nâu và khô lại. Hoa chuối mới ea thì hướng lên trời, sau thì càng ngày càng trĩu xuống đất, sau khi rụng hết bẹ thì phát triển trở thành buồng quả. Một buồng chuối thường có 10 nải, vô cùng sai quả, trĩu nặng cả thân cây, thậm chí người trồng phải lấy gậy đẻ cố định thân chuối tránh cho vì buồng chuối quá nặng mà làm đổ cây. Quả chuối là loại quả có hột, khi còn non có màu xanh, sau khi chính thì chuyển thành màu vàng, cong cong như miệng cười duyên của người thiếu nữ. Tuy chuối có nhiều loại những đều mang những đặc điểm chung như trên.

 

Như đã nói, ta có thể tận dụng triệt để mọi bộ phận của cây chuối. Thân chuối nhiều nước, khi đi rừng, người ta thường lấy nước từ thân chuối đẻ uống thay nước ngọt khi gặp phải tình trạng hết nước dự trữ. Vì có nhiều nước nên thân chuối có thể nổi dễ dàng trên mặt nước, trẻ con vùng nông thôn ngày trước hay dùng thân chuối để thay phao tập bơi ở ao hồ sông suối. Lá chuối cả tươi cả già đều có thể dùng gói bánh, khi tươi có thể đem rửa sạch và bọc nhiều lớp quanh đặc sản nem chua còn khi già thì được khéo léo bọc lấy bánh gai đen, vừa tạo mùi thơm lại vừa bảo vệ môi trường. Hoa chuối khi chưa kết buồng có thể dùng làm nộm, sau khi kết buồng thành từng nải chuối chín vàng thì lại trở thành món loại quả bổ dưỡng đối với cơ thể. Không chỉ hữu ích trong đời sống sinh hoạt đời thương, chuối còn là loài cây mang ý những ý nghĩa trang trọng. Chuối ở vùng Nam Định xưa từng được vua yêu thích không thôi, là thứ quả ngự dụng của nhà vua và sau cũng đổi tên thành chuối ngự. Còn ngày nay, nải chuối vẫn không thể thiếu trên mâm ngũ quả ngày tết vừa với hàm ý về sự đủ đầy và đoàn kết vừa là sự tưởng nhớ và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà tổ tiên trong dịp tết đến xuân về.

Đến ngày nay, chuối xuất hiện với nhiều hình thức đa dạng trong cuộc sống con người Việt Nam: từ chuối sấy khô đến những món bánh chuối, kem chuối. Và dù đất nước có hiện đại đến đâu, chuối vẫn là thức quả dinh dưỡng được nhân dân ta ưa chuộng và cây chuối vẫn sẽ không ngừng mọc lên ở những vùng nông thôn và vùng núi cao, vừa đem lại kinh tế cho người nông dân vừa là sự lưu giữ một loài cây mang đậm màu sắc văn hóa nước Việt.

12 tháng 9 2019

   Nước Việt Nam ta hình thành và phát triển từ nền văn minh lúa nước. Khoảng 90% dân số nước ta sống chủ yếu nhờ vào nông nghiệp. Trong đó, cây lúa đóng vai trò chủ yếu. Bao nhiêu thế kỉ đã qua, con người và cây lúa gắn bó với nhau keo sơn bền chặt. Mồ hôi con người rơi đổ xuống từng luống cày mới lật, thấm vào từng tấc đất cho cây lúa ươm mầm vươn lên mượt mà xanh tốt. Đi từ Bắc chí Nam, dọc theo đường quốc lộ hay ven những rặng núi, những dòng sông, bao giờ ta cũng cũng thấy những cánh đồng lúa xanh tận chân trời hoặc vàng thắm một màu trù phú. Cây lúa là người bạn của con người, là biểu tượng của sự no ấm phồn vinh của đất nước.

   Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa dài và mỏng, mặt lá nhám, gân lá chạy song song. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.

   Muốn lấy hạt gạo bên trong, con người phải trải qua nhiều công đoạn: gặt lúa, trục lúa về, phơi cho hạt thật khô. Sau đó đổ lúa vào trong cối, dùng chày mà giã liên tục cho lớp vỏ trấu bong tróc ra. Kế tiếp phải sàng sảy để lựa ra hạt gao chắc mẩy... Sau này, máy móc đã thay dần cho sức người, năng suất tăng dần theo thời gian, nhưng ở những vùng cao người ta vẫn dùng chày để giã gạo. Tiếng chày "cụp, cum" văng vẳng trong đêm gợi lên một cuộc sống lao động thanh bình mang đậm bản sắc riêng của người dân Việt.

   Cây lúa ở nước ta có rất nhiều giống nhiều loại. Tuỳ vào đặc điểm địa lý từng vùng, từng miền mà người ta trồng những giống lúa khác nhau. Ở miền Bắc với những đồng chiêm trũng, người ta chọn lúa chiêm thích hợp với nước sâu để cấy trồng, miền Nam đồng cạn phù sa màu mỡ hợp với những giống lúa cạn. Ở những vùng lũ như Tân Châu, Châu Đốc, Mộc Hoá, Long Xuyên người ta chọn loại lúa "trời" hay còn gọi là lúa nổi, lúa nước để gieo trồng. Gọi là lúa "trời" vì việc trồng tỉa người nông dân cứ phó mặc cho trời. Gieo hạt lúa xuống đồng, gặp mùa nước nổi, cây lúa cứ mọc cao dần lên theo con nước. Đến khi nước rút, thân lúa dài nằm ngã rạp trên đồng và bắt đầu trổ hạt. Người dân cứ việc vác liềm ra cắt lúa đem về.

   Ngày nay, ngành nghiên cứu nuôi trồng phát triển đã cho ra đời nhiều loại lúa ngắn ngày có năng suất cao như NN8, Thần Nông 8, ÔM, IR66...

   Theo điều kiện khí hậu và thời tiết nước ta, cây lúa thường được trồng vào các vụ mùa sau: miền Bắc trồng vào các vụ lúa chiêm, lúa xuân, miền Nam chủ yếu là lúa Đông Xuân và lúa Hè Thu. Các loại lúa ngắn ngày thường không bị ảnh hưởng bởi vụ mùa.

   Cây lúa đã mang đến cho dân ta hai đặc sản quí từ lâu đời. Đó là bánh chưng, bánh giầy và cốm. Bánh chưng bánh giầy xuất hiện từ thời Hùng Vương, biểu tượng cho trời và đất. Người Việt ta dùng hai thứ bánh này dâng cúng tổ tiên và trời đất vào những dịp lễ tết. Nó trở thành đặc sản truyền thống của dân tộc Việt.

   Cốm, một đặc sản nữa của cây lúa. Chỉ những người chuyên môn mới định được lúc gặt thóc nếp mang về. Qua nhiều chế biến, những cách thức làm có tính gia truyền từ đời này sang đời khác đã biến hạt thóc nếp thành cốm dẻo, thơm và ngon. Nhắc đến cốm, không đâu ngon bằng cốm làng Vòng ở gần Hà Nội.

   Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dựa vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:

   Bao giờ cây lúa còn bông

   Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

Lúa là người bạn muôn đời gắn bó với sự cần lao của người nông dân Việt Nam. Nếu hoa sen mang vẻ đẹp thanh khiết , áo dài mang vẻ đẹp thướt tha đặc trưng của người phụ nữ Á Đông ,thì cây lúa Việt Nam có một nét đẹp dân dã thân thuộc.

Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ xa xưa, trên hầu hết cánh đồng lúa dải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam. Và các giống lúa cũng ngày càng đa dạng , phong phú bởi lúa được nghiên cứu nuôi trồng và nhân giống . Lúa có nhiều loại tùy thuộc theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền có địa hình và đất khác nhau nên lúa cũng phân bố khác nhau, nhưng thích hợp trồng lúa nhất là những vùng có nước ngọt, nếu vùng có nước quá mặn, phèn như vùng Tây Nguyên, lúa không thể lên được và cây lúa sống chủ yếu nhờ nước là loại cây lá mầm rễ chùm. Thân lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60-80 cm. Cây lúa được chia làm ba bộ phận chính , nhờ chúng cây có thể phát triển tốt: rễ cây nằm dưới lớp đất màu mỡ có tác dụng hút chất dinh dưỡng nuôi cơ thể, thân cây là cầu nối con đường đưa dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, còn ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín rồi có màu vàng và người ta gặt về làm thành gạo. Người nông dân thường trồng các loại giống lúa phổ biến như: lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu….Lúa nếp người ta thường trồng để làm bánh: bánh trưng, bánh nếp,… hoặc để thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa trồng làm nguồn thực phẩm chính, đóng vai trò quan trọng trong mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam còn lúa non được dùng làm cốm. Theo các nghiên cứu, trước kia ông cha ta trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Bắc trồng các loại giống lúa C70, DT10, A20,...

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, để có được thành quả ngày hôm nay, người nông dân phải vất vả, lao dộng chăm chỉ ,thực hiện đúng các công đoạn để có được một vụ mùa bội thu: từ gieo mạ, cấy mạ, bón phân, tưới tắm ,nhổ cỏ và những ngày đông hoặc mưa bão, hạn hán người dân phải khổ cực nhiều lần để che chắn và chăm sóc chúng. Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng tuần người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông dân phát hiện các ổ sâu hại lúa và bón phân để lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng , người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu hoạch bằng tay rất vất vả và tốn kém nhưng bây giờ , công nghệ phát triển tiến bổ hơn, người ta thu hoạch bằng máy nên đỡ phần nào khó nhọc cho con người. Từ thời ông cha ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển, công nghệ trong sản xuất được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi , người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo... Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người. Những hạt gạo được làm ra không chỉ phục vụ bữa ăn chính của con người mà còn để làm bánh , nấu xôi, đặc biệt vào những dịp lễ hay Tết, gạo để làm bánh trưng truyền thống và còn làm món quà trao nhau. Chính những người nông dân ấy đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam có vị thế như ngày hôm nay với ngành lúa nước hay đất nước chúng ta còn được ca ngợi là Văn Minh Lúa Nước.

Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương thực dồi dào của nước ta, có tầm quan trong đối với phát triển kinh tế , mang lại sự no đủ cho chúng ta và trở thành nét đẹp tinh thần của người dân Việt Nam.
 

tham khảo:

Thời học sinh mỗi chúng đi đều gắn liền với rất nhiều loại đồ dùng học tập. Trong đồ dùng đều đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu, ví như thước để giúp ta vẽ hình, kẻ đường thẳng sao cho ngay ngắn sạch đẹp, vở giúp chúng ta lưu lại kiến thức, sách là tài liệu tham khảo vô cùng hữu ích, cặp sách đóng vai trò là người bảo vệ, chứa đựng tất cả những đồ dùng học tập. Và tôi muốn nhắc đến cây bút viết, vật không thể thiếu trong giảng đường, và sau sau này khi lớn lên thì bút vẫn luôn xuất hiện trong cuộc sống của ta mọi lúc. Ngày xưa người ta dùng bút máy, bút chì nhiều, đến hôm nay bút bi lại là loại được yêu thích hơn cả vì tính tiện lợi.

Bút đã ra đời từ rất lâu trước đây, tuy nhiên bút bi mới chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, do John J. Loud tạo ra, với cấu tạo đơn giản bao gồm một hòn bi được cố định bởi khung thép, có thể chuyển động tròn dùng để đánh dấu trên các bề mặt khô nhám, sần sùi như gỗ, da,…Tuy nhiên đáng tiếc vì loại bút này không được thương mại hóa, thế nên nó dần bị người ta lãng quên. Mãi đến những năm 1930, thì loại bút này mới được tiếp tục tạo ra bởi László Bíró một cộng tác viên của 1 tạp chí nhỏ. Nguyên nhân là bởi ông rất phiền não với việc bút máy liên tục làm bẩn giấy và tay, đồng thời dễ hỏng, điều đó thôi thúc ông sáng tạo ra một loại bút mới bao gồm 1 hòn bi gắn vào đầu một ống mực tròn, khi viết liên giấy hòn bi chuyển động kéo theo mực trong ống ra, tạo thành nét chữ nhanh khô và đẹp, lại bền và tiện dụng. Phát hiện được tiềm năng của loại bút này László Bíró đã hợp tác với người anh trai học chuyên ngành hóa học là George để tạo ra loại bút với nguyên lý làm việc như trên và tiến hành thương mại hóa nó.

 

Bút bi có hai loại chính là loại có thể nạp mực và loại không nạp mực, trong đó loại không nạp mực được sử dụng vô cùng phổ biến, bởi sự tiện dụng, sạch sẽ và khá rẻ, người ta có thể dễ dàng mua nó ở mọi nơi. Cấu tạo của bút khá đơn giản bao gồm một ống mực bằng nhựa dẻo, một ngòi bằng kim loại không gỉ, trên ngòi này người ta gắn một viên bi bằng thép có kích thước tí hon, có thể dễ dàng lăn tròn 360 độ trong ngòi bút đảm bảo mực thoát ra đều và không bị lem. Về phần mực bút, có hai kiểu mực chính là mực nước và mực dầu. Đối với mực nước, khi viết lượng mực thoát ra nhiều hơn, nét chữ đằm thắm và ổn định, nên thường đẹp hơn, tuy nhiên loại mực này đọng lại trên giấy lâu, nét chữ lâu khô dễ gây nhòe, bẩn khi viết. Đối với loại mực dầu, thì lượng mực thoát ra khá ít, mau khô, nhưng màu sắc không được tươi, và do dầu gây trơn ngòi nên viết loại bút này nét chữ hay run, không được đẹp lắm. So sánh thì bút bi mực nước thường dùng để cho học sinh tiểu học luyện chữ, cnf bút mực dầu thường dùng cho học sinh trung học, người lớn vì cần viết nhanh, và viết nhiều. Không chỉ vậy bút mực dầu còn là loại bút khá tiết kiệm mực, giá lại rẻ, đông thời khá bền, thế nên được ưa chuộng hơn. Thông thường người ta dùng bút đến khi hết mực rồi bỏ, nhưng đối với bút mực nước ra có thể mua riêng ruột bút để thay thế cho tiết kiệm. Đối với phần vỏ bút, là một ống rỗng làm bằng nhựa hoặc kim loại, bên trên có in họa tiết, tên, logo của đơn vị sản xuất và các thông số kỹ thuật như cỡ ngòi, loại mực,… Đóng vai trò bảo vệ ruột bút đồng thời cung cấp cho tay người viết một tư thế cầm thuận tiện, vừa phải. Về thiết kế sẽ có kiểu bút dùng lò xo để đẩy ngòi ra khi viết, loại này có một bộ phận đẩy bằng nhựa hoặc kim loại đặt phía đầu bút. Kiểu thiết kế này phù hợp với những người hay quên, không cẩn thận, như vậy phần vỏ bút sẽ đóng vai trò làm bộ phận bảo vệ ngòi luôn, trên vỏ bút cũng gắn thêm bộ phận cài. Ngược lại, có kiểu bút bi dùng nắp để bảo vệ, trên nắp có gắn đầu cài, để cài bút vào sách vở hoặc túi áo, tránh thất lạc, nhược điểm là lỡ làm mất nắp bút thì khả năng cao là bút sẽ bị hỏng khi vô tình làm rơi.

 

Về công dụng, thì quá rõ ràng bút là vật dụng học tập, làm việc vô cùng quan trọng, thậm chí được coi là một vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống. Nó kết hợp với vở để giúp con người lưu lại những kiến thức, những dữ liệu cần ghi nhớ. Bút cũng là một loại quà tặng khá thông dụng, được nhiều người ưa thích, bởi nó có ý nghĩa chúc người nhận được thành công, học hành tấn tới, đặc biệt là đối với người kinh doanh hoặc làm những công việc liên quan đến văn thư, văn hóa, hành chính thì lại càng là thứ quà tặng thích hợp.

Như vậy có thể thấy bút dẫu rằng có cấu tạo đơn giản, thế nhưng nó lại đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống, chắp cánh cho con đường học tập, làm việc của nhiều đối tượng. Vì vậy chúng ta hãy trân trọng và sử dụng bút một cách có hiệu quả, không nên lãng phí.

24 tháng 9 2021

dạ mk cảm ơn ạ. Nhưng mk muốn thuyết minh về CÂY RAU MUỐNG ko phải rau muống luộc ạ vui

24 tháng 9 2021

À, xl ạ, mk lm lại cho bn nha

22 tháng 12 2022

Bút bi là một đồ dùng quen thuộc và rất phổ biến trong đời sống con người. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh, sinh viên và những người làm việc văn phòng, công sở, bút bi là một dụng cụ không thể thiếu.

Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. Điều khiến ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn làm ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938, ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi ra đời, bút bi đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và trở nên thông dụng khắp thế giới.

Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ nhựa và bỏ đi khi dùng hết mực. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng và giá cao hơn.

Bút bi có cấu tạo 3 phần cơ bản là vỏ, ruột và bộ phận điều chỉnh bút. Vỏ thường được làm bằng chất liệu nhựa tổng hợp nhẹ mà cứng để bảo vệ phần ruột bút bên trong.

Ruột bằng nhựa dẻo hình trụ bên trong rỗng để chứa mực gọi là ống mực. Ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này. Loại mực dùng cho bút bi khô rất nhanh, ngay sau khi được viết lên giấy. Độ thanh hay đậm của nét bút là do kích thước của viên bi này. Ống mực của loại nạp lại được gồm ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này. Loại ống mực không nạp được thì chỉ sử dụng một lần và không thể bơm thêm mực.

Bộ phận điều chỉnh gồm phần bấm và lò xo, ngoài ra còn có thể có nắp. Bộ phận điều chỉnh bút chính là phần ngòi bút. Ngòi bút được làm bằng kim loại không gỉ để tránh bị gỉ sét theo thời gian. Bên trong nó là một viên bi cũng làm bằng kim loại. Viên bi này khi viết sẽ giúp cho mực được ra đều hơn.

Bút bi có thế có nắp để dậy lại khi không dùng đến, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt.

So với các loại bút khác thì bút bi phổ biến hơn cả. Bút bi có nhiều ưu điểm vượt trội hơn hẳn mà giá lại rẻ, thuận tiện và dễ dàng khi sử dụng, không xảy ra nhiều vấn đề lỗi, cũng không cần phải bảo dưỡng nghiêm ngặt. Nếu như bút máy chỉ được dùng trong những trường hợp yêu cầu nét chữ đẹp trong các trường hợp đặc biệt, bút ký dùng để ký tên hay bút chì dùng để vẽ, viết nháp thì bút bi có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp, nhất là khi vừa lắng nghe, vừa ghi chép lại một cách nhanh chóng và dễ dàng. Bên cạnh đó, bút bi không khiến nét chữ bị nhòe lem nhem như bút máy, cũng không dễ bị tẩy xóa mất chữ như bút chì. Do đó, có thể nói bút bi có tác dụng rất rõ ràng, là người bạn đồng hành với mỗi chúng ta qua những năm tháng, giai đoạn khác nhau của mỗi người.

Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn,… đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kì như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu,… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút còn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh…

Có cây bút vẻ ngoài mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng loáng. Nhìn bút, người ta biết được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đoán được tính cách hay đánh giá được trình độ của nhau. Một cây bút tốt, đắt tiền đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng. Bút là vật vô tri, nên nó không tự làm nên những câu chữ có ý nghĩa nhưng nếu nằm trong tay người chủ chuyên cần, hiếu học, nó sẽ cho ra đời những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và luôn trau dồi kiến thức học tập,…

Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẻ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhiêu tình cảm, hơn hẳn những dòng email vô hồn. Bây giờ lật lại từng tờ lưu bút, từng trang vở cũ, ta mới cảm nhận được những gì quý giá của thời học sinh đã qua cũng như thấy được giá trị của cây bút bi, phải không bạn!

Cùng với sách, vở,… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt: dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh làm rơi bút, hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không dùng bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi.

Bất cứ ai có thể viết đều ít nhất một lần trong đời sử dụng bút bi. Rẻ tiền, thuận tiện và không cần bảo dưỡng, bút bi đã cách mạng hóa cách viết của con người. Mặc dù ngày nay, sự phát triển của công nghệ đã giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc ghi chép hay gửi một bức thư, văn bản nào đó bằng công nghệ điện tử, nhưng bút bi vẫn là sự lựa chọn trong những trường hợp đặc biệt, thể hiện được tâm tư, tình cảm và ý nguyện của người viết gửi gắm vào những dòng chữ đó. Chiếc bút bi giá rẻ nhưng sẽ mãi không thể bị thay thế bởi bất kỳ sản phẩm nào được. Như vậy, nhìn lại quá khứ về lịch sử cây bút bi cho ta thấy bút bi có nguồn gốc ra đời từ khá lâu rồi, nó đã tạo cho xã hội ngày nay một sự tiện dụng mà hoàn toàn kinh tế trên mọi hoạt động văn bản.

31 tháng 3 2022

Tham khảo
1. Những lời chúc, những tấm thiệp chúc Tết đã quá quen thuộc với chúng ta mỗ khi Tết đến, xuân về, giúp mọi người chúc mừng năm mới, mong muốn người nhận có một năm vui vẻ, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn. Do đó, bên cạnh những lời chúc Tết thì những tấm thiệp chúc mừng năm mới cũng được nhiều người sáng tạo mang đậm màu sắc của ngày Tết nhằm gửi đến cho người thân yêu.

    Thiệp chúc tết là những món quà ý nghĩa đầu năm với mong muốn mang lại sự bình yên, vui tui, sung túc của người tặng cho người được nhận. Vì vậy thiệp chúc tết là một điều không thể thiếu trong mỗi con người mỗi dịp xuân đến thu về. Những tấm thiệp độc đáo sẽ được trang trí thật đẹp và độc đáo. Những tấm thiêọ được gửi cho nhua như một lời trao đi yêu thương, xóa tan mọi khoảng cách, gắn kết tất cả yêuu thương. Tấm thiệp tuy không có giá trị vật chất cao nhưng lại mang một giá trị tinh thần lớn. Tấm thiệp đã trở thành một nét văn hóa đẹp trong giao tiếp của văn hóa người Việt. 

     Ai ai cũng thấy chẳng thích nhận lời chúc may mắn nhân dịp đầu năm, việc gửi tặng những tấm thiệp đó để lại cho mỗi người một ấn tượng khó phai.
2. Việt Nam ta từ lâu được biết đến là quốc gia có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc mang đậm bản chất văn hóa dân tộc. Một trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến chính là trò chơi dân gian kéo co.

Không ai biết chính xác thời gian trò chơi này được hình thành từ bao giờ chỉ biết rằng trò chơi này được tìm thấy từ những vết tích cổ đại chạm trỗ trên các ngôi mộ ở Ai Cập. Điều đó chứng tỏ con người đã nghĩ ra trò chơi này từ rất sớm, khoảng 2500 TCN. Quốc gia phong kiến cổ đại Trung Hoa cũng ưa chuộng trò chơi này đặc biệt ở thời nhà Đường và thời Tống. Quốc gia nổi tiếng thế vận hội - Hi Lạp cũng chọn môn kéo co là môn thi đấu từ 500 TCN. Kéo co bằng da cừu, da dê là hình thức mà các thuyền trưởng người Tây Âu nghỉ đến để rèn luyện sức khỏe và giải trí cho các thủy thủ của mình từ 1000 năm sau Công nguyên. Và chính trò chơi kéo co từ lâu cũng đã phổ biến trong văn hóa của người Việt Nam ta.

Kéo co có hai đội cân xứng. Dụng cụ kéo co thường là dây thừng, sợi dây dài ở giữa buộc một khăn màu, vị trí khăn nằm ngay vạch kẻ. Sau khi nhận được còi báo hiệu từ trọng tài, hai đội ra sức níu dây thừng và kéo, nếu khăn màu lệch về hướng nào thì đội bên đó thắng. Có một số nơi thay thế khăn đỏ bằng một cột tre cắm giữa sân. Nếu không có dây thừng, người chơi có thể kéo trực tiếp bằng tay. Hai người đứng trước nhất chéo tay vào nhau chắc chắn, những người sau ôm bụng người trước cứ thế đến người cuối cùng. Khi vào thế sẵn sàng, đội bên nào bị đứt đoạn là bên đó thua. Để phân thắng bại, trò chơi thường phải đấu 3 vòng, thời gian mỗi vòng tùy thuộc vào sức kéo của hai đội.

Trò chơi dân gian kéo co được ưa chuộng trên cả nước, nó được tổ chức thường xuyên ở mức độ nhỏ như trường, lớp, địa phương đến các cuộc thi kéo co hàng năm. Kéo co từng là một môn thể thao trong thế vận hội thế giới. Hiện nay trò chơi này còn nằm trong hiệp hội kéo co quốc tế ở các nước châu Âu như Hà Lan, Anh, Thụy Điển. Đây là trò chơi và cũng là là môn thể thao rèn luyện sức khỏe, sức bền và tinh thần đoàn kết của người chơi. Bên cạnh đó, môn thể thao này còn vui nhộn bởi tinh thần cổ vũ cho hai đội và những pha té ngã hài hước.

 

Sinh hoạt văn hóa đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn cũng như mang lại niềm vui, giá trị tinh thần cho con người Việt Nam ta. Chúng ta hãy giữ gìn và phát huy nét đẹp của trò chơi kéo co nói riêng và các trò chơi dân gian khác nói chung để đất nước Việt Nam không chỉ phát triển hội nhập mà vẫn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc