K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 2 2016

I. Tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

An-tôn Páp -lô-vich Sê-khốp (1860-1904) là một trong những đại biểu cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga, bước vào lịch sử văn học Nga như một nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch nói. A.Sê-khốp sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta-gan-rốc, bên bờ biển A-dốp, miền nam nước Nga.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Y, Sê-khốp vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết báo, viết văn đồng thời tham gia nhiều công việc xã hội, giáo dục, văn hóa; nổi bật là chuyến đi thăm đảo Xa-kha-lin (1890) - nơi đày ải các tù nhân Nga.

Năm 1887, Sê-khốp được nhận giải thưởng Pu-skin của Viện Hàn lâm khoa học Nga; năm 1890 ông được bầu làm việc sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Nga. Năm 1904, Sê khốp ốm nằng và qua đời ở Đức.

2. Tác phẩm

Người trong bao (1898) là truyện ngắn nổi tiếng của Sê - khốp, được sáng tác trong thời gian nhà văn dưỡng bện ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo Crum, biển Đen. Đây là một trong ba truyện ngắn có chung chủ đề phê phán lối sống tầm thường, dung tục tiểu tư sản, lối sống của một kiểu người, một bộ phận trí thức xã hội Nga những năm cuối thế kí XIX.

Trong truyện ngắn Người trong bao, qua cuộc trò chuyện của hai người bạn: thầy giáo trường làng Bu-rơ-kin và bác sĩ thú y Ivan I Va nứt, qua khắc họa chân dung nhân vật thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp cổ Bê li cốp, tác giả muốn khắc họa chân chủ đề người trí thức Nga, lối sống mê si an(tiểu tư sản) ở Nga, lối sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát, cá nhân và ích kỉ, máy móc và giáo điều, đê tiện và dung tục.

II. Trả lời câu hỏi

1. Hình tượng nhân vật Bê - li  - cốp

- Chân dung Bê li cốp được vẽ bằng những nét khá cụ thể và đặc biệt rất kỳ dị: cặp kính đen trên gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé, choắt lại như mặt chồn... Đến ý nghĩa của mình, y cũng cố giấu vào bao. Y không bao giờ dám có ý kiến riêng về bất cứ một vấn đề nhỏ to nào,...

Từ những nét vẽ rất thành công, nhà văn khái quát khát vọng mãnh liệt - kì dị của Bê li cốp: thu mình trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao để có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng, tác động của cuộc sống bên ngoài. Bê li cop nhút nhát, ghê sợ hiện tại nhưng lại ngợi ca, tôn sùng quá khứ. Chính vì  kiểu sống và tính cách như thế cho nên mối tình đầu muộn mằn của y với Va ren ca, khi y đã ngoài bốn mươi tuổi vãn không thành là điều dễ hiểu.

Bê li cốp luôn luôn thỏa mãn, hài lòng với lối sống cổ lỗ, hủ lậu kì quái của mình. Luôn tự tin ở cách sống đúng mực và vì thế y rất ngạc nhiên và không thể chịu đựng được cách sống của chị em Va ren ca. 

Quả thật, Bê li cốp không hiểu mọi người xung quanh, không hiểu xã hội, cuộc sống đương thời. Y cứ nhởn nhơ, tự nhiên đắm chìm trong quá khứ, trong những xác tín cực kì lạc hậu, đen tối như cặp kính đen luôn gắn với đôi mắt nhỏ của mình.. Đó là một người trong bao, lối sống trong bao, tính cách trong bao hay người mang vỏ ốc.

- Lối sống và con người Bê li cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến lối sống tinh thần của anh chị em trong trường nơi y làm việc, trong cả thanh phố nơi y sống. Mọi người ghét y, sợ y, tránh xa y, không muốn dây với y.

Đôi khi có một người cũng muốn tò mò thử thay đổi cách sống của y bằng cách gán ghép y với Va ren ca nhưng chẳng ăn thua gì. Có người như Cô va len cô  khinh ghét ra mặt, gây gổ với y nhưng tất thảy chẳng những không thể làm gì thay đổi mà còn bị tính cahcs ấy ám ảnh. Ngya cả khi Bê li cốp chết tính cách và lối sống ấy vẫn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hiện tại và tương lai của thành phố.

2. Trong cấu trúc nghệ thuật của truyện, nhà văn đã để Bê li cốp chết một cách bất ngờ. Cái chết của nhân vật chính đã gây ra không ít những ngạc nhiên cho những người xung quanh. Bê li cốp với tạng người và các cách sống của y dẫn đến cái chết như thế là loogic.

Với mọi người, khi Bê li cốp còn sống họ sợ hãi, căm ghét y; khi y chết họ cảm thấy được thoát khỏi gánh nặng, thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng chưa được bao lâu, cuộc sống của họ lại diễn ra như cũ, như khi Bê li cốp còn sống: nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng. Từ cách thể hiện nghệ thuật này nhà văn khái quát ảnh hưởng, tác động dai dẳng, nặng nề của kiểu người Bê li cốp, lối sống ấy đã ám ảnh, đầu đọc bầu không khí ngột ngạt, nặng nề của văn hóa, đạo đức xã hội nước Nga đương thời như thế nào.

3. Hình ảnh cái bao là một trong những sáng tạo độc đáo của tác giả. Nó bao hàm và gợi ra cho người đọc những ý nghĩa sau:

- Nghĩa đen: Vật dùng để bao, gói, đựng đồ ..

- Nghĩa bóng: Lối sống và tính cách của Bê li cốp

- Nghĩa tượng trưng: Kiểu người trong bao, lối sống trong bao - một kiểu người, một lối sống không chỉ đã và đang tồn tại ở nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX mà còn có ý nghĩa phổ quát hơn nhiều.

Chủ đề tư tưởng của truyện: Người trong bao lên án mạnh mẽ kiểu người trong bao, lối sống trong bao hèn nhát, cá nhân, ích kỉ, hủ lậu của một bộ phận trí thức Nga và tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai của nước Nga.

4. Những đặc sắc nghệ thuật của truyện được thể hiện ở:

- Cách chọn ngôi kể: Tác giả đồng thời sử dụng cả hai hình thức người kể chuyện và nhân vật kể chuyện. Nhân vật trong truyện đồng thời cũng là nhân vật kể chuyện (Bu rơ kin) ở ngôi thứ nhất (xưng tôi). Tác giả vẫn giữa ngôi thứ ba, kể lại câu chuyện của Bu rơ kin. Nhờ cách kể như vậy, tác giả vừa đảm bảo được tính khách quan vừa vẫn thể hiện được tính chủ quan, gây được cảm giác gần gũi và chân thật của câu chuyện.

- Tạo ra cấu trúc kể truyện lồng trong truyện

- Giọng kể: giọng mỉa mai, châm biềm mà trầm tĩnh, chậm buồn, bề ngoài có vẻ khách quan, bình thản nhưng giấu bên trong sự bức xúc, trăn trở mạnh và sâu.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Bê li cốp được khắc họa mộtt cách rất điển hình – một tính cách kì quái mà chân thực từ ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động đến tính cách, lối sống.

- Biện pháp đối lập giữa các kiểu người, các tính cách và lối sống trái ngược.

- Nghệ thuật xây dựng biểu tượng: Hình ảnh cái bao và lời nói “nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao”. Hình ảnh và lời nói này đều vừa có ý nghĩa cụ thể vừa có ý nghĩa biểu tượng.

- Kết thúc truyện bằng cách trực tiếp phát biểu chủ đề qua một câu cảm thán gây ấn tượng mạnh với người đọc.

5. Người trong bao có ý nghĩa thời sự rộng rãi và sâu sắc với đương thời ở nước Nga. Không những thế, lối sống trong bao, kiểu người trong bao với những biến thể, dị bản khác nhau có ý nghĩa toàn thế giới, lâu dài cho đến tận ngày nay. Chỉ đến khi nào xã hội loài người trở nên trong sạch, lành mạnh, tự do, khi mỗi cá nhân ý thức được mục đích và cách sống thống nhất với chuẩn mực văn hóa, đạo đức của cộng đồng hiện đại, .. thì lối sống trong bao mới triệt để chấm dứt.

19 tháng 2 2016
 
 
 

















1. An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 - 1904) xuất thân trong một gia đình lao động bình dân ở tỉnh Ta-gan-rốc. Ông là nhà văn Nga kiệt xuất trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch.

Sê-khốp, nhà văn Nga. Sinh tại tỉnh Ta-gan-rốc, miền Nam nước Nga, trong một gia đình lao động bình thường. Là cháu một nông nô, con một người làm công cho một hiệu buôn, Sê-khốp đã phải phấn đấu gian khổ từ nhỏ để kiếm sống, giúp đỡ mẹ và các em, tìm cho mình một nghề nghiệp, đồng thời phát triển tài năng. Trong cuộc sống nghèo hèn ấy, Sê-khốp không ngừng vươn lên "vắt kiệt dòng máu nô lệ" để làm một con người chân chính, một nhà văn chân chính. 1884, Sê-khốp tốt nghiệp Bác sĩ y khoa. Công việc của người thầy thuốc nông thôn giúp cho nhà văn tiếp xúc với nhiều tầng lớp, hiểu biết sâu sắc tâm lí con người để sáng tạo nên một thế giới nhân vật đông đảo, đủ màu, đủ sắc, đồng thời cũng giúp nhà văn rèn luyện một lối viết sắc sảo, chính xác, gọn chắc. Sê-khốp là nhà hoạt động văn hoá xã hội ; tham gia nhiều đợt chống dịch bệnh, chống nạn đói ; mở nhiều trường học, phòng phát thuốc, phòng đọc sách, trạm cứu hoả… ; sống nhiều năm ở nông thôn, trồng cây, làm vườn, gần gũi, chăm lo sức khoẻ cho nông dân quanh vùng. Những người lao động bình thường : nông dân, người đánh xe, diễn viên, thầy thuốc nông thôn, thầy giáo, sinh viên, người làm công… là nhân vật trung tâm trong nhiều tác phẩm của nhà văn. 1890, Sê-khốp đã đi hơn bốn ngàn cây số bằng những phương tiện thô sơ đến đảo Xa-kha-lin để điều tra nghiên cứu thực tế. Đảo này là nơi giam giữ đày ải dã man các tù nhân, nhân dân địa phương sống rất khổ cực. Sê-khốp đã làm việc liên tục suốt ba tháng, ghi chép khoảng 9.000 phiếu về khoảng 9.000 trường hợp nạn nhân của chế độ độc đoán của Nga hoàng. Ông đi thăm mọi nhà, trò chuyện với mọi người, chứng kiến đủ các hình thức nhục mạ và huỷ diệt con người. Ông viết những tác phẩm tố cáo chế độ tù ngục, gây một tiếng vang lớn trong xã hội. 1900, Sê-khốp được bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Nga, nhưng năm 1902 ông tuyên bố khước từ danh hiệu này để phản đối Nga hoàng không chấp nhận việc bầu Go-rơ-ki vào Viện Hàn lâm. Sê-khốp nổi tiếng là một người khiêm tốn, tế nhị, yêu thương giúp đỡ mọi người. Ông qua đời trong khi đang điều dưỡng bệnh phổi tại một tỉnh ở Đức, bên cạnh người vợ thân yêu Ôn-ga Kơ-ni-pe, nữ nghệ sĩ của Nhà hát nghệ thuật Mát-xcơ-va. Thi hài của nhà văn được đưa về Mát-xcơ-va. (Đỗ Hồng Chung, Từ điển văn học, Sđd)

2. Truyện ngắn Người trong bao (1898) được Sê-khốp viết trong bối cảnh cả xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề cuối thế kỉ XIX. Câu chuyện nói về một người điển hình về chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược  đây là một phát hiện đặc sắc có tính triết lí và khái quát nghệ thuật cao của nhà văn.

3.Đọc hiểu

Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX. Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.
Viết trong bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nông nô bảo thủ nặng nề thế kỉ XIX, truyện ngắn Người trong bao đã phản ánh một cách chân thực sinh động bộ mặt xã hội và hình ảnh con người. Tập trung vào chủ đề “con người bé nhỏ”, Sê-khốp bên cạnh sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, còn phê phán nghiêm khắc những tật xấu của họ. Đặc biệt, môi trường xã hội bảo thủ nặng nề đã đẻ ra những thứ sản phẩm người “quái thai”, “kì dị” rất đáng phê phán và loại bỏ. Hình tượng “người trong bao” là một phát hiện nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh con người mắc chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược đến nỗi sống và chết một cách thảm hại đã khái quát một triết lí sâu sắc tiếp nối chủ đề “con người thừa” trong văn học Nga suốt thế kỉ XIX.

Nhân vật Bê-li-cốp – "người trong bao", được nhà văn xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật phong phú. Nhà văn vừa miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật, vừa sử dụng lời đối thoại trực tiếp của nhân vật đi kèm với lời người kể chuyện tạo cho người đọc có cái nhìn toàn diện về nhân vật.

Cách miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật Bê-li-cốp khá đặc biệt thể hiện một sự quan sát chi tiết, kĩ lưỡng. Lúc nào cũng vậy, Bê-li-cốp đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ông ở trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt để trong bao và chiếc dao nhỏ gọt bút chì cũng ở trong bao. Bê-li-cốp với mắt đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, ngồi xe ngựa thì thu mình lại. Có vẻ như một bộ dạng hài hước đến phi lí nhưng ngay cả bộ mặt của hắn “dường như cũng ở trong bao”. Hình ảnh cái bao như một ám ảnh đối với người kể chuyện khi tả lại chân dung Bê-li-cốp. Tưởng như cái bao đó là một tấm vỏ đáng sợ gói chặt hắn đến ngạt thở, làm tấm ngăn cách hắn với cuộc sống bên ngoài. Người kể chuyện vẫn còn kể thêm chi tiết “Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao”. Tưởng như thâm hiểm, thần bí lắm nhưng thực chất đó là một kiểu người kì quặc đến quái dị. Ngay cả “thói quen” của hắn cũng rất lạ. Việc đi hết nhà này đến nhà khác không nói không rằng, mắt nhìn xung quanh như kiếm vật gì rồi lại cáo từ làm người ta hoảng sợ. Hắn cho đó là cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Sự im lặng – “trong bao” ấy như hàm chứa trong đó một sự bảo thủ trì trệ, ngu dốt, bạc nhược đến thảm hại.

Tự giam mình trong bao, hắn sống cũng rất “thảm hại”. Buồng ngủ “chật như cái hộp”, cửa sổ đóng kín mít, khi ngủ “kéo chăn trùm đầu kín mít”... Nhưng Bê-li-cốp nằm trong chăn rồi vẫn thấy sợ. Một nỗi sợ vô hình bao trùm hắn. Thức, hắn sợ. Mơ, hắn cũng sợ. Những giấc mơ khủng khiếp để lại cho hắn nét mặt tái nhợt, rầu rĩ. Tâm lí sợ hãi giống như một bóng ma vây lấy hắn, nhưng kì lạ là các nhân vật khác cũng hoảng sợ “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”. Một sự mê muội hoang tưởng của những kẻ hèn yếu. Những kẻ tự giam mình trong vỏ ốc cá nhân ích kỉ bạc nhược, những kẻ không dám đấu tranh vượt lên chính mình. Hình ảnh dân chúng trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây đâm ra sợ hãi khiến người đọc có những liên tưởng thú vị. Đây phải chăng là diện mạo chung cho cả xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng bảo thủ khắc nghiệt. Một bầu không khí u ám đến ngạt thở mà tất cả đều tự nhốt mình trong bao. Cả xã hội – ở mức độ này hay mức độ khác, đều là người trong bao.
Cách đối thoại trực tiếp của Bê-li-cốp với Cô-va-len-cô càng bộc lộ rõ hơn tính cách “người trong bao”. Lại là một chuyện phi lí khi Bê-li-cốp cho rằng đi xe đạp “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Vẫn là một sự nhận thức mê muội, nhảm nhí, một sự bảo thủ đến ngu dốt, nhưng khi hắn “tái mặt”, khi động đến chuyện “cấp trên”, “chính quyền” thì tính cách của Bê-li-cốp lại có một biểu hiện khác. Hắn chính là một kẻ bạc nhược, một sản phẩm dị hợm của xã hội bảo thủ. Những con người như Bê-li-cốp là những công cụ đắc lực của xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng, những kẻ ngu dốt lại có tài bợ đỡ, luồn cúi. Hình ảnh “cấp trên”, “chính quyền” chính là bóng ma của “quyền lực” bao phủ câu chuyện.

Cái ngã lộn nhào và cái chết của Bê-li-cốp được tác giả thuật lại bằng giọng điệu hài hước. Mọi việc diễn ra “như không”. Bê-li-cốp không quan tâm tới việc ngã có đau không, có xây xước gì không mà điều đầu tiên xem “cặp kính có còn nguyên vẹn không”. Hắn không quan tâm đến việc ngã như thế nào mà chỉ sợ ai đó đã trông thấy lúc hắn ngã thì thật là “kinh khủng”. Hắn sợ mình là trò cười nhưng nỗi “sợ” của hắn đã biến hắn thành một tên hề đáng cười nhất. Hắn run rẩy trong nỗi sợ mù quáng và cũng chết trong sự mù quáng ấy. Quả thực, tiếng cười của Va-ren-ca đã chấm dứt cuộc đời Bê-li-cốp. Va-ren-ca cười khi cái bao che phủ con người Bê-li-cốp bị rách toạc, hình ảnh người trong bao lộ mặt. Mọi sợ hãi của Bê-li-cốp đã thành sự thực. Không phải chết do cú ngã, hắn lên giường và không dậy nữa. Hắn chỉ đáp “không” hoặc “có” rồi đến im lặng vĩnh viễn.

Cái chết của Bê-li-cốp là tất yếu, chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thai trong xã hội. Đây cũng là điều khiến mọi người thấy “nhẹ nhàng, thoải mái”. Nhưng bi kịch chính ở chỗ hắn chết trong sự thảm hại mà vẫn “tươi tỉnh lắm”, mừng như “được chui vào trong cái bao”. Cái nhìn hiện thực sắc sảo của tác giả đã khai thác rất sâu tính bi kịch của câu chuyện. Một kẻ ngu dốt hoang tưởng, bạc nhược hèn yếu nhưng lại không nhận ra được chính mình. Một kẻ bị ru ngủ trong sự bảo thủ trì trệ.

Ở cuối truyện, lời người kể chuyện mang đầy sắc thái chiêm nghiệm : “Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa”. Hình ảnh người trong bao không chỉ có một mà là số đông, là cả một xã hội bạc nhược, nhát sợ. Cái xã hội mà bóng ma chuyên chế nông nô bao phủ lấn át. Sự xuất hiện của những con người kiểu Bê-li-cốp đã kìm hãm sự phát triển phồn thịnh của đất nước, đẩy nước Nga chìm đắm trong màn đêm đen tối lạc hậu. Lời của bác sĩ I-van có ý nghĩa thức tỉnh sâu xa. Ý thức được bản thân mình là kiểu “người trong bao” để rồi quyết tâm phá bỏ nó là cả một quá trình nhận thức tiến bộ. “Không thể sống mãi như thế được” – câu nói của I-van đã thắp sáng niềm tin tươi sáng vào sự phát triển của dân tộc. Trong ánh hoàng hôn ảm đạm của nước Nga nông nô chuyên chế, sự dũng cảm loại bỏ cái xấu xa hèn kém của chế độ Nga hoàng đã khẳng định tầm nhìn vĩ đại của Sê-khốp, khẳng định ông là một bậc thầy của cách mạng hiện thực Nga cuối thế kỉ XIX.


Xem thêm: /tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=109274#.Vsa_UZAVWgs#ixzz40ayQDAxb

16 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác  giả

Mi- Khai - in A - lếc - xan - đrô - vich Sô - Lô - Khốp ( 1905-1984) là nhà văn hiện thực vĩ đại của Liên Xô. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân thuộc thị trấn Vi -ô - sen - xcai - a, một địa phương ở vùng thảo nguyên sông Đông, thuộc tỉnh Rô - stôp của Liên Xô

Ông tham gia nhiều công tác khi cách mạng nội chiến bùng nổ và tích cực hoạt động văn nghệ, viết văn. Sau chiến tranh, ông tập trung sáng tác. Ông được nhận giải Nobel về văn học năm 1965.

Tác phẩm chính : Những truyện ngắn sông Đông, Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Họ chiến đấu vì tổ quốc....

2. Tác phẩm

Truyên ngắn " Số phận con người" của Sô - lô - khốp được ra mắt trong những ngày đầu năm 1957. Truyện có ý nghĩa khá to lớn đối với toàn bộ sự phát triển của nền văn xuôi Xô Viết xuốt giai đoạn sau này.  Ở đây, tác giả tập trung thể hiện hình tượng con người bất hạnh trong chiến tranh. Truyện được in trong tập " Truyện sông Đông"

"Số phận con người" tập trung khám phá nỗi bất hạnh của con người trong chiến tranh. Song tuy viết về những đau thương, mất mát trong chiến tranh khốc liệt, tác giả vẫn giữ vững niềm tin ở tính cách Nga kiên cường cũng như lòng tin ở cuộc sống bao dung.

II. Trả lời câu hỏi.

1. Hoàn cảnh của An - đrây Xô - cô - lốp sau khi kết thúc chiến tranh và trước khi gặp bé Va - ni - a chứa đầy nước mắt, cay đắng, bất hạnh. Chiến đấu được 1 năm, anh bị thương 2 lần vào tay và chân. Hai năm sau đó anh bị đày đọa trong các trại giam của Đức. Năm 1944, thoát khỏi nhà tù, anh đau đớn biết tin vợ và hai con gái đã bị giết hại, ngôi nhà xưa chỉ còn là một hố bom. Niềm hi vọng cuối cùng giúp anh bấu víu vào cuộc đời này là A - na - tô - li, chú học sinh giỏi toán, đại úy pháo binh, đứa con trai yêu quý đã cùng anh chiến đấu ở Beclin. Thế nhưng,  đúng ngày chiến thắng, con anh lại hi sinh. An - đrây Xô - cô - lốp đã chịu đựng những mất mát ghê gớm, nhưng đó không phải là một ngoại lệ hiếm hoi, mà lại là một trường hợp khá tiêu biểu cho 25 triệu người Xô Viết đã hi sinh. Chính hoàn cảnh đau đớn, bi kịch của An - đrây Xô - cô - lốp đã thể hiện sâu sắc sự khốc liện, tàn bạo của cuộc chiến.

Sau chiến tranh, thứ chờ đợi An - đrây Xô - cô - lốp chính là vực thẳm của nạn nghiện rượu. Bị đẩy vào tình cảnh bi đát, con người thiếu bản lĩnh sẽ dễ rơi vào bất lực, bế tắc. Bao quanh anh chính là sự tuyệt vọng và cô đơn, âm thầm và lặng lẽ. Hoàn cảnh, số phận của An - đrây Xô - cô - lốp đã thể hiện sinh động những nỗi đau đớn, bi kịch của con người trong chiến tranh.

2. Những chi tiết nghệ thuật được chọn lọc tinh tế để bộc lỗ cả sự xót thương và lòng yêu mến của An - đrây Xô - cô - lốp đối với bé Vi - ni - a. Sự ngây thơ, nỗi tội nghiệp của một thằng bé mồ côi, không nơi nương tựa, cho gì căn nấy, bạ đâu ngủ đấy đã đánh động đến tình yêu thương thẳm sâu trong tâm hồn con người.

An - đrây Xô - cô - lốp dùng những hình ảnh nhỏ bé, tội nghiệp để so sánh  với Va - ni - a nhỏ bé và xót xa, đau đớn khi nghe thấy tiếng thở dài của bé.  Tình người ấm áp đã khiến con người choán váng vì hạnh phúc được nương tựa, sẻ chia.

Tình yêu thương có khả năng chữa lành những vết thương trong tâm hồn con người. Chính lòng nhân ái giúp cho hai con người cô đơn, côi cút có thể vượt qua số phận bi kịch của chính mình và tìm đến sưởi ấm cho nhau.

Điểm nhìn của nhân vật An - đrây Xô - cô - lốp hoàn toàn trùng khớp với điểm nhìn của tác giả. Đó là một điểm nhìn chan chứa yêu thương, hướng tới cuộc sống bình yên, tâm hồn trong sáng của trẻ thơ, đậm đã giá trị nhân đạo.

3. Cuộc đời đau khổ, cô đơn của An - đrây Xô - cô - lốp với những khó khăn chồng chất đã được nhà văn miêu tả hết sức sinh động, chân thực. Câu chuyện xe oto của anh quệt phải con bò, chính là câu chuyện về kế sinh nhai, nghe qua tưởng là bông đùa, dí dỏm, nhưng ngẫm lại mới thấy xót đau, chua chát : "Con bò đứng dậy ve vẩy đuôi rồi chạy vào ngõ hẻm, còn tôi bị tước bằng lái" .

4. Nhà văn tin tưởng  vào một thế hệ tương lai qua hình ảnh chú bé Va - ni - a : nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đâu với mọi thử thách. ... Nhà văn tin vào sức mạnh tiềm ẩn và những cống hiến  thầm lặng mà to lớn của thế hệ những An - đrây Xô - cô - lốp nói riêng và Con người Nga nói chung trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đoạn cuối là lời nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm, trách nhiệm của toàn xã hội đối với mỗi số phận cá nhân bất hạnh. Đoạn trữ tình ngoại để này là đoạn văn thể hiện tập trung ý nghĩ của cả đoạn trích được học.

5. Với An - đrây Xô - cô - lốp, trong cuộc sống, con người có thể gặp rất nhiều bất hạnh, nỗi đau, sự mất mát. nhưng nhà văn không mất đi niềm hi vọng và niềm tin hạnh phúc của con người Theo ông, con người cần biết dựa vào nhau để có được hạnh phúc, giống như Xô - cô - lốp và Va-ni-a đã đến với nhau để kiếm tìm chỗ dựa cho hạnh phúc của mình

 

29 tháng 12 2018

=> Đáp án C

1 tháng 9 2016

bn vào địa chỉ này nhé : http://www.soanbai.com/2013/09/huong-dan-soan-bai-tu-tinh-ho-xuan-huong.html    và    http://www.soanbai.com/2013/09/huong-dan-soan-bai-thu-dieu-nguyen-khuyen.html

16 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Khải ( 1930-2008), tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải. Ông sinh ra ở Hà Nội nhưng quê gốc ở Nam Định. Thủa nhỏ, ông sống ở nhiều nơi. Tham gia các mạng từ khi đang học trung học, Nguyễn Khải từng gia nhập đội tự vệ chiến đấu ở Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tà rồi làm báo. Năm 951, ông làm công tác tuyên huấn ở Phòng chính trị Liên khu III. Năm 1952, ông làm Thư ký toàn soạn báo "Chiến sĩ" của Khu IV. Từ 1955, ông công tác ở tòa soạn tạp chí "Văn nghệ quân đội", là Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2000, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

Tác phẩm chính : "Xung đột" - tiểu thuyết, 1959-1962;  "Mùa lạc" - 1960, "Một chặng đường" - 1962, "Họ sống và chiến đấu" - 1966, "Hòa Vang" - 1967...

2. Tác phẩm

Truyện ngắn " Một người Hà Nội" phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.

II. Trả lời câu hỏi

1. Nhân vật trung tâm là cô Hiền, được tác giả xây dựng là một người Hà Nội bình thường như bao người Hà Nội khác, đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua những biến động thăng trầm , nhưng vẫn giữ được cái cốt cách, bản lĩnh và nếp sống văn hóa của con người nơi đây. Tính cách thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm những quan điểm, thái độ của mình trước cuộc sống chính là nét đẹp tâm hồn, cá tính của cô. Trước niềm vui kháng chiến thắng lợi, miền Bắc bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, cô nhìn nhận một cách khách quan. Đầu óc thực tế của cô tính toán rất khôn khéo mọi việc trước sau.

Cuộc đời Hiền song hành cùng lúc với những chặng đường dài, những biến động lớn lao của đất nước. Lịch sử dân tộc được soi sáng qua số phận, cách ứng xử của từng cá nhân. Cô Hiền luôn giữ được những phẩm giá, nhân cách tốt đẹp của mình, sống vì vận mệnh đất nước. Xuất phát từ lí tưởng cao đẹp xây dựng một xã hội nhân ái, không có cảnh người bóc lột người, chế độ mới chỉ trân trọng lao động sáng tạo của từng người, không chấp nhận hiện tượng ông chủ và kẻ làm thuê, vì thế, sau hòa bình lập lại ở miền Bắc mới có chính sách cải tạo tư sản. Cô không đồng ý cho chồng mua máy in và thuê thợ làm chỉ vì cô muốn góp phần vào công việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ để nhanh chóng khôi phục đất nước sau chiến tranh.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cô vô cùng thương con, lo lắng cho con nhưng sẵn sàng cho con ra trận như những thanh niên khác. Những bộc bạch giản dị, chân thành nhưng ngời sáng một cách tự trọng, một tấm lòng yêu nước thiết tha.

Cô Hiền là biểu tượng của "một hạt bụi vàng" của Hà Nội. Ánh vàng đó chính là truyền thống đẹp đẽ, cốt cách trong sáng của con người nơi đây.

2. Dũng là đứa con trai đầu mà cô Hiền rất yêu quý. Anh đã sống đúng với những lời mẹ dạy về cách sống của người Hà Nội. Năm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện đăng kú xin đi đánh Mĩ. Anh lên Thái nguyên huấn luyện và vào Nam chiến đấu suốt 10 năm. Dũng may mắn trở về nhưng còn biết bao thanh niên khác đã anh dũng hy sinh. Trong đó có Tuất, cùng nhập cũ với Dũng. Cuộc gặp gỡ mẹ của Tuất đã cho ta thấy chính những con người này đá khẳng định và gìn giữ cốt cách tinh thần của người Hà Nội nói riêng và những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam nói chung

Tuy nhiên cũng có một góc khác, một phần khác của sự thật, của cuộc sống mà người nghệ sĩ đã thẳng thắn nhìn vào và phản ánh trong tác phẩm của mình. Họ đã đánh mất đi sự tinh tế, thanh lịch, nhẹ nhàng của người Hà Nội

3. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc  Sơn bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh gợi những suy nghĩ, chiêm nghiệm về quy luật bất diệt của sự sống, thể hiện quy luật của sự vận động xã hội. Hà Nội đẹp đẽ, thanh bình, Hà Nội trải qua nhiều biến cố dữ dội nhưng vẻ đẹp, sức sống, truyền thống văn hóa của Hà Nội cũng bề bỉ trường tồn cũng tạo vật, thiên nhiên

Ý nghĩa triết luận đậm nét sâu sắc của chi tiết nghệ thuật cây si cổ thụ đã thể hiện sinh động phong cách ngòi bút Nguyễn Khải

4. Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Khải phản ảnh rất sinh động lập trường xã hội, tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, khẳng định phong cách nhà văn và tác động sâu sắc đến độc giả. Đó là một giọng điệu đầy chiêm nghiệm, vừa tự nhiên, dân dã, vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh

 

22 tháng 2 2016

Đề bài:  Soạn bài nỗi oán của người phòng khuê của Vương Xương Linh văn 10
I.    tìm hiểu chung
1.    tác giả

-    Vương Xương Linh (608 – 756), tự là Chiếu Bá.
–    Quê ở Thiểm Tây trung Quốc.
–    Ông nổi tiếng là một nhà thơ thiên về thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ông không những sử dụng thành thạo thể thơ này trong những sáng tác của mình mà ông còn đạt được nhiều thành công đối với nó.
–    Ông để lại 180 bài thơ và một số tập văn.
–    Nội dung thơ ông phong phú: có những bài thơ nói về tình cảm bạn bè trong sáng, khi lại là khúc oán của người cung nữ, đề cập đến cuộc sống của những người lính biên cương.
–    Phong cách thơ: trong trẻo tinh tế.

2.    Tác phẩm

a.    Thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt.
b.    Bố cục: 2 phần.
–    Phần 1: hai câu thơ đầu: thể hiện được cô gái phòng khuê vẫn còn vô tư trong sáng.
–    Phần 2: cô gái nhận ra hối hận đã để chồng đi kiếm tước hầu.
c.    Nhan đề: nỗi oán là nỗi oán hận, day dứt trong lòng, người phòng khuê là chỉ những cô gái có chồng đi lính xa xôi.
->    Nhan đề có nghĩa là nỗi oán hận, hối hận của người con gái khi để chồng đi lính kiếm tước hầu.


II.    Phân tích
1.    Cô gái phòng khuê vẫn trong sáng vô tư không biết sầu.

–    Chồng đi lính kiếm tước hầu nhưng cô gái chẳng biết sầu là gì hoạt động hằng ngày của cô vẫn diễn ra bình thường như khi chồng còn ở nhà vậy.
–    Cô vẫn không biết sầu là gì mặc dù thiếu bóng người chồng.
–    Cô vẫn hàng ngày trang điểm má phấn hồng son dạo lên lầu.
->    Đây quả là một cô gái vô tư không lo nghĩ gì nhiều, cô vẫn còn rất trẻ và suy nghĩ còn chưa được trưởng thành. Cô hãy còn vui vẻ nhưng chỉ là vui vẻ một mình.

 

soan bai noi oan nguoi khue phong

soan bai noi oan nguoi khue phong

2.    Sự hối hận của cô gái

-    Đây quả là một bước chuyển biến tâm trạng rõ rệt của cô gái ấy.
–    Cô trang điểm bước lên lầu nhưng để ai ngắm cô kia chứ, bỗng chốc cô nhận ra việc cô để chông đi kiếm hầu tước là sai.
–    Cô nhìn thấy ngọn liễu xanh kia thì chợt nghĩ đến bản thân mình, khi này cô vẫn còn trẻ tươi xanh như thế kia, đẹp như thế kia.
–    Thế nhưng cô nhận ra để người chồng đi lính là đẩy chồng mình vào biết bao nhiêu khó khăn gian khổ thậm chí nó còn đánh đổi cả tính mạng để lấy được hầu tước.
–    Lỡ như có chuyện gì xảy ra thì nàng trẻ như liễu xanh mà không có ai để ngắm, không có ai khen ngợi vẻ đẹp của nàng, thậm chí nàng còn trở thành một người góa bụa.

->    Chính vì lí do ấy mà cô gái vô tư bỗng chốc trở thành một cô gái biết sầu, hối hận khi cho chồng đi lính.

III.    Tổng kết

-    Nội dung: bài thơ thể hiện được sự chuyển biến trong tâm trạng của một cô gái có chồng đi lính kiếm hầu tước. Cô oán hận chiến tranh khiến chồng cô phải đi lính, cô càng oán hận khi bản thân mình quá vô tư không nghĩ xa mà lại để chồng đi lính.
–    Nghệ thuật: tả tình tinh tế, ngắn gọn, hàm súc.

2 tháng 3 2016

Câu 1 :

Muốn thấy được tính chuẩn xác trong việc sử dụng từ ngữ của Hoài Thanh và Nguyễn Du, chúng ta cần đặt các từ ngữ trong mục địch chỉ ra những nét tiêu biểu trong diện mạo hoặc tính cách các nhân vật " Truyện Kiều" cùng lúc so sánh đối chiếu với các từ tương đương, gần nghĩa, đồng nghĩa mà các nhà văn đó đã không sử dụng

Hai nhà văn đã sử dụng các từ ngữ sau đây :

- Kim Trọng : rất mực chung tình

- Thúy Vân : cô em gái ngoan

- Hoạn thư : người đàn bà bản lĩnh khác thường, biết điều mà cay nghiệt

- Thúc sinh : sợ vợ

- Từ Hải : chợt hiện ra, chợt biến đi như một vì sao lạ

- Tú Bà : nhờn nhợt màu da

- Mã Giám Sinh : Mày râu nhẵn nhụi

- Sở Khanh : chải chuốt dịu dàng

- Bạc Bà, Bạc Hạnh : miệng thề "Xoen xoét"

Để thấy được mức độ chuẩn xác của việc dùng các từ ngữ trên ta dùng cách : Đối với mỗi từ ngữ  dùng cho mỗi nhân vật nêu trên ta có thể hồi tưởng lại những chi tiết tiêu biểu trong " Truyện Kiều" với từng nhân vật đó mà Nguyễn Du đã viết.

Câu 2 :

Đặt lại các dấu câu vào vị trí thích hợp để đảm bảo sự trong sáng của đoạn văn sau đây của Chế Lan Viên đã bị lược bỏ các dấu câu :

" Tôi có lấy một ví dụ về một dòng sông. Dòng sông vừa trôi chảy, vừa phải tiếp nhận - dọc đường đi của mình - những dòng nước khác. Dòng ngôn từ cũng vậy - một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của nó, nhưng nó không được phép gạt bỏ, từ chối những gì mà thời đại đem lại"

Câu 3 : 

- Từ "Microsoft" là tên riêng của một công ty; từ "cocorruder" là anh từ tự xưng nên giữ nguyên

- Từ "file" cần thay bằng tiếng Việt là tệp tin . Từ hacker có thay bằng tiếng VIệt là kẻ đột nhập trái phép cho dễ hiểu.

 

2 tháng 3 2016

TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1 :

Trong truyện ngắn " Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn cao và quản ngục, trên bình diện xã hội họ hoàn toàn đối lập nhau. Một người là "tên đại nghịch", cầm đàu nổi loại nay bị bắt, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thường. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm, nhơ bẩn, tác giả đã tạo nên một cuộc kì ngộ đáng nhớ và kì lạ

Tình huống truyện độc đáo thể hiện ở mối quan hệ éo le; đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong tình thế đối nghịch : tử tù và quản ngục. Chính tình huống này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng " biệt nhỡn liên tài" của  viên quản ngục. Từ đó mà chủ đề tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.

Câu 2 :

Trong "Chữ người tử tù", ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện ở ba phẩm chất

- Huấn Cao là một con người tài hoa siêu việt, đầy uy lực. Ông có tài viết chữ, chữ ông " đẹp và vuông lắm". Nó nức tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Nó khiến cho viên quản ngục say mê đến mê muội, ngày đêm mong có được chữ của ông để treo trong nhà

- Khí phách hiên ngang, bất khuất, Huấn Cao là một trang anh hùng, dũng liệt. Ông là một kẻ " đại nghịch" đã đành, ngay cả khi bắt đầu đặt chân vào nhà lao này, ở ông vẫn giữ được cái thế hiên ngang. Sự ngang tàng của Huấn Cao còn thể hiện ở thái độ không quỵ lụy trước cường quyền và tù ngục.

- Huấn Cao còn là một người có "thiên lương" trong sáng và cao đẹp. Nó thể hiện ở thái độ tôn trọng trước một nhân cách đẹp ( viên quản ngục), trước một người nghệ sĩ có cái sở nguyện trong sáng. Ông sẵn sàng cho chữ, sẵn sàng chia sẽ những lời gan ruột, chân thành với viên quản ngục trước khi vào kinh thành thụ án. Đó là sự ứng xử đáng trọng của một nhân cách cao cả

Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những quan niệm của mình về cái đẹp. Trong truyện, Huấn Cao được xây dựng không chỉ là người có tài mà còn có tâm, có thiên lương. Huấn Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, coi thường cái chết và tiền bạc mà còn có tấm lòng yêu quý cái thiện, mềm lòng trước tấm lòng " biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục và thậm chí còn biết sợ cái việc " chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Có thể nói đó là hai mặt thống nhất  của một nhân cách lớn. Như thế, trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của tác giả.

Câu 3 :

Dù có thể được coi là nhân vật phụ, song qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng được coi là một nhân vật độc đáo

- Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ máy thống trị đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh cao, tao nhã - thú chơi chữ. Ngay từ khi còn trẻ, khi mới " biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", ông đã có cái sở nguyện " một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối da ông Huấn Cao viết"

- Viên quản ngục là người biết trân trọng giá trị con người. Điều đó thể hiện rõ qua hành động " biệt đãi" của ông đối với Huấn Cao - một kẻ tử tù đại nghịch

- Cái sở nguyện thanh cao muốn có được chữ của Huấn Cao để treo bất chấp nguy hiểm, cùng thái độ thành kình đón nhận chữ từ tay Huấn Cao cho thấy, viên quản ngục là một người có tấm lòng " biệt nhỡn liên tài", là người biết trân trọng những giá trị văn hóa.

- Diễn biến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy đây cũng là một nhân cách đẹp, một " tấm lòng trong thiên hạ", tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là " một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn độn"

- Có thể nói, viên quản ngục là một người biết giữ " thiên lương", biết trân trọng giá trị văn hóa và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng thật lòng cái đẹp

Câu 4 :

Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được thể hiện nổi bật và tập trung nhất trong đêm ông cho chữ viên quản ngục. Bằng khả năng sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sắc sảo, Nguyễn Tuân đã rất dụng công để khắc tạo lên một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", trong đó, nổi bật là vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ  hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao

Có thể nói cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" vì :

- Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một hoạt động sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ươt, hôi hám của nhà tù. Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn; thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác ngự trị

- Người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh để chịu án tử hình. Trong cảnh này, người tù thì nổi bật lên uy nghi, lồng lộng, còn quản ngục, thơ lại thì lại khúm núm, run run bên cạnh người tù đang bị gông xiềng kia

- Trật tự, kỉ cương trong nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược : tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm, vái lại tù nhân

Thì ra, giữa trốn ngục tù tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà người tử tù làm chủ. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với với cái ác,.. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng

Câu 5 :

Các nhân vật của Nguyễn Tuân tuy chỉ được miêu tả trong những khoảnh khắc nhưng đó là những khoảnh khắc đặc biệt, bởi thế mà họ đều rất ấn tượng.

Nhân vật rất giàu tính cách, rất ngang tàng, rất tài năng nhưng cái tâm cũng luôn trong sáng. Đó là những biểu tượng về cái đẹp, là những con người hoàn mĩ

Trong truyện, đáng chú ý nhất là đoạn miên tả cảnh vật và không khí thiêng liêng, cổ kính của cảnh cho chứ. Đoạn văn này thể hiện tài năng sắc sảo của Nguyễn Tuân không chỉ trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện mà còn ở khả năng sử dụng bút pháp đối lập tạo dựng cảnh. Chính nhờ thủ pháp này mà cảnh tượng hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ của nó.

 

22 tháng 2 2016

I.    Đọc hiểu chung
1.    Tác giả

–    Nguyễn tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
–    Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa
–    Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người
2.    Tác phẩm
–    Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
–    Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng
–    Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám
II.    Đọc hiểu chi tiết
1.    Hình tượng con sông Đà

–    Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình
–    Hung bạo:
•    Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện
•    Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy
•    Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy
•    Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa”  nghệ thuật lấy lửa tả nước
•    Đá ở lòng sông: như bày thạch trận
–    Thơ mộng: di hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này
•    Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”  đẹp như một người thiếu nữ
•    Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả  đẹp độc đáo
•    Sông Đà gợi cảm:
+ cố nhân
+ con sông còn gợi lên những niềm thơ 
•    Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích  thơ mộng trữ tình và thanh vắng
->    Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc
2.    Hình tượng người lái đò
–    Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
–    Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
–    Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác
•    Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.

22 tháng 2 2016

CÁO BỆNH, BẢO MỌI NGƯỜI

(Cáo tật thị chúng)

MÃN GIÁC THIỀN SƯ

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Mãn Giác thiền sư (1052 – 1096) tên là Lí Trường, sinh thời được Thái hậu và vua rất trọng dụng.

2. Cáo tật thị chúng (nhan đề do người đời sau đặt) là một bài kệ. Kệ là một thể văn của Phật giáo dùng để truyền bá giáo lí Phật pháp. Kệ được viết bằng văn vần, nhiều bài có giá trị văn chương như các bài thơ.

3. Cáo tật thị chúng là một triết lí phật giáo nhưng cũng là một quan niệm nhân sinh. Bài thơ thể hiện cảm giác tiếc nuối thời gian. Thời gian trôi đi, tuổi già đến, con người không thể sống vô nghĩa. Con người với lòng yêu đời đã có một cái nhìn rất lạc quan về cuộc sống.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. a) Bốn câu thơ đầu nói lên quy luật hoá sinh của tự nhiên, của con người; hoa cũng như con người không bao giờ đứng yên, bất biến. Sự sống luôn  là một vòng quay luân hồi.

  Nếu đảo ngược vị trí câu thơ thứ hai lên đầu thì mặc dù vẫn nói lên được quy luật tuần hoá biến đổi nhưng đó sẽ là nhìn sự vận động theo quy luật xuân tới để xuân qua, hoa tươi để hoa rụng, chứ không theo quy luật sinh trưởng phát triển tự nhiên (xuân qua rồi xuân tới, hoa rụng rồi hoa tươi).

b) Câu ba và câu bốn nói lên quy luật của đời người - quy luật : sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật. Con người cùng với thời gian trôi thì tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già ắt đến. Tuổi già đến trên đầu mà thời gian thì không ngừng trôi chảy (trước mắt việc đi mãi). Vì thế cuộc đời con người trong khoảnh khắc có khác gì ảo ảnh. Hai câu thơ  có chút bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thuỷ vô chung còn thời gian của đời người thì ngắn ngủi.

2. Trong hai câu  thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo ; khi con người đã giác ngộ đạo (hiểu được chân lí và quy luật) thì có sức mạnh lớn lao, vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như  nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Theo cách giải  thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.

3. Bài thơ thể hiện rất rõ lòng yêu đời với cái nhìn lạc quan của nhà thơ. Niềm yêu đời, niềm lạc quan tươi sáng ấy được thể hiện qua cách nói khẳng định, qua các hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp tươi tắn, gợi lên sự cảm nhận về sự sống sinh sôi và bất diệt. Quy luật của cuộc đời là sinh – tử – sinh nhưng bài thơ mở đầu  bằng “xuân tàn” và kết thúc bằng “một nhành mai” tươi. Đó là một cách nhìn lạc quan.

Lời kệ được viết khi nhà thơ đau bệnh nhưng nó vẫn toát lên sự bình thản yêu đời, xuất phát từ một thể trạng tinh thần khoẻ mạnh, đầy bản lĩnh, đạt đến độ tự tại ung dung.

4.  Trong  quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.

23 tháng 2 2016

CÁO BỆNH, BẢO MỌI NGƯỜI

(Cáo tật thị chúng)

MÃN GIÁC THIỀN SƯ

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Mãn Giác thiền sư (1052 – 1096) tên là Lí Trường, sinh thời được Thái hậu và vua rất trọng dụng.

2. Cáo tật thị chúng (nhan đề do người đời sau đặt) là một bài kệ. Kệ là một thể văn của Phật giáo dùng để truyền bá giáo lí Phật pháp. Kệ được viết bằng văn vần, nhiều bài có giá trị văn chương như các bài thơ.

3. Cáo tật thị chúng là một triết lí phật giáo nhưng cũng là một quan niệm nhân sinh. Bài thơ thể hiện cảm giác tiếc nuối thời gian. Thời gian trôi đi, tuổi già đến, con người không thể sống vô nghĩa. Con người với lòng yêu đời đã có một cái nhìn rất lạc quan về cuộc sống.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. a) Bốn câu thơ đầu nói lên quy luật hoá sinh của tự nhiên, của con người; hoa cũng như con người không bao giờ đứng yên, bất biến. Sự sống luôn  là một vòng quay luân hồi.

  Nếu đảo ngược vị trí câu thơ thứ hai lên đầu thì mặc dù vẫn nói lên được quy luật tuần hoá biến đổi nhưng đó sẽ là nhìn sự vận động theo quy luật xuân tới để xuân qua, hoa tươi để hoa rụng, chứ không theo quy luật sinh trưởng phát triển tự nhiên (xuân qua rồi xuân tới, hoa rụng rồi hoa tươi).

b) Câu ba và câu bốn nói lên quy luật của đời người - quy luật : sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật. Con người cùng với thời gian trôi thì tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già ắt đến. Tuổi già đến trên đầu mà thời gian thì không ngừng trôi chảy (trước mắt việc đi mãi). Vì thế cuộc đời con người trong khoảnh khắc có khác gì ảo ảnh. Hai câu thơ  có chút bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thuỷ vô chung còn thời gian của đời người thì ngắn ngủi.

2. Trong hai câu  thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo ; khi con người đã giác ngộ đạo (hiểu được chân lí và quy luật) thì có sức mạnh lớn lao, vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như  nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Theo cách giải  thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.

3. Bài thơ thể hiện rất rõ lòng yêu đời với cái nhìn lạc quan của nhà thơ. Niềm yêu đời, niềm lạc quan tươi sáng ấy được thể hiện qua cách nói khẳng định, qua các hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp tươi tắn, gợi lên sự cảm nhận về sự sống sinh sôi và bất diệt. Quy luật của cuộc đời là sinh – tử – sinh nhưng bài thơ mở đầu  bằng “xuân tàn” và kết thúc bằng “một nhành mai” tươi. Đó là một cách nhìn lạc quan.

Lời kệ được viết khi nhà thơ đau bệnh nhưng nó vẫn toát lên sự bình thản yêu đời, xuất phát từ một thể trạng tinh thần khoẻ mạnh, đầy bản lĩnh, đạt đến độ tự tại ung dung.

4.  Trong  quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.