K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 2 2016

I. Tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

An-tôn Páp -lô-vich Sê-khốp (1860-1904) là một trong những đại biểu cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga, bước vào lịch sử văn học Nga như một nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch nói. A.Sê-khốp sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta-gan-rốc, bên bờ biển A-dốp, miền nam nước Nga.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Y, Sê-khốp vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết báo, viết văn đồng thời tham gia nhiều công việc xã hội, giáo dục, văn hóa; nổi bật là chuyến đi thăm đảo Xa-kha-lin (1890) - nơi đày ải các tù nhân Nga.

Năm 1887, Sê-khốp được nhận giải thưởng Pu-skin của Viện Hàn lâm khoa học Nga; năm 1890 ông được bầu làm việc sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Nga. Năm 1904, Sê khốp ốm nằng và qua đời ở Đức.

2. Tác phẩm

Người trong bao (1898) là truyện ngắn nổi tiếng của Sê - khốp, được sáng tác trong thời gian nhà văn dưỡng bện ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo Crum, biển Đen. Đây là một trong ba truyện ngắn có chung chủ đề phê phán lối sống tầm thường, dung tục tiểu tư sản, lối sống của một kiểu người, một bộ phận trí thức xã hội Nga những năm cuối thế kí XIX.

Trong truyện ngắn Người trong bao, qua cuộc trò chuyện của hai người bạn: thầy giáo trường làng Bu-rơ-kin và bác sĩ thú y Ivan I Va nứt, qua khắc họa chân dung nhân vật thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp cổ Bê li cốp, tác giả muốn khắc họa chân chủ đề người trí thức Nga, lối sống mê si an(tiểu tư sản) ở Nga, lối sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát, cá nhân và ích kỉ, máy móc và giáo điều, đê tiện và dung tục.

II. Trả lời câu hỏi

1. Hình tượng nhân vật Bê - li  - cốp

- Chân dung Bê li cốp được vẽ bằng những nét khá cụ thể và đặc biệt rất kỳ dị: cặp kính đen trên gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé, choắt lại như mặt chồn... Đến ý nghĩa của mình, y cũng cố giấu vào bao. Y không bao giờ dám có ý kiến riêng về bất cứ một vấn đề nhỏ to nào,...

Từ những nét vẽ rất thành công, nhà văn khái quát khát vọng mãnh liệt - kì dị của Bê li cốp: thu mình trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao để có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng, tác động của cuộc sống bên ngoài. Bê li cop nhút nhát, ghê sợ hiện tại nhưng lại ngợi ca, tôn sùng quá khứ. Chính vì  kiểu sống và tính cách như thế cho nên mối tình đầu muộn mằn của y với Va ren ca, khi y đã ngoài bốn mươi tuổi vãn không thành là điều dễ hiểu.

Bê li cốp luôn luôn thỏa mãn, hài lòng với lối sống cổ lỗ, hủ lậu kì quái của mình. Luôn tự tin ở cách sống đúng mực và vì thế y rất ngạc nhiên và không thể chịu đựng được cách sống của chị em Va ren ca. 

Quả thật, Bê li cốp không hiểu mọi người xung quanh, không hiểu xã hội, cuộc sống đương thời. Y cứ nhởn nhơ, tự nhiên đắm chìm trong quá khứ, trong những xác tín cực kì lạc hậu, đen tối như cặp kính đen luôn gắn với đôi mắt nhỏ của mình.. Đó là một người trong bao, lối sống trong bao, tính cách trong bao hay người mang vỏ ốc.

- Lối sống và con người Bê li cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến lối sống tinh thần của anh chị em trong trường nơi y làm việc, trong cả thanh phố nơi y sống. Mọi người ghét y, sợ y, tránh xa y, không muốn dây với y.

Đôi khi có một người cũng muốn tò mò thử thay đổi cách sống của y bằng cách gán ghép y với Va ren ca nhưng chẳng ăn thua gì. Có người như Cô va len cô  khinh ghét ra mặt, gây gổ với y nhưng tất thảy chẳng những không thể làm gì thay đổi mà còn bị tính cahcs ấy ám ảnh. Ngya cả khi Bê li cốp chết tính cách và lối sống ấy vẫn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hiện tại và tương lai của thành phố.

2. Trong cấu trúc nghệ thuật của truyện, nhà văn đã để Bê li cốp chết một cách bất ngờ. Cái chết của nhân vật chính đã gây ra không ít những ngạc nhiên cho những người xung quanh. Bê li cốp với tạng người và các cách sống của y dẫn đến cái chết như thế là loogic.

Với mọi người, khi Bê li cốp còn sống họ sợ hãi, căm ghét y; khi y chết họ cảm thấy được thoát khỏi gánh nặng, thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng chưa được bao lâu, cuộc sống của họ lại diễn ra như cũ, như khi Bê li cốp còn sống: nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng. Từ cách thể hiện nghệ thuật này nhà văn khái quát ảnh hưởng, tác động dai dẳng, nặng nề của kiểu người Bê li cốp, lối sống ấy đã ám ảnh, đầu đọc bầu không khí ngột ngạt, nặng nề của văn hóa, đạo đức xã hội nước Nga đương thời như thế nào.

3. Hình ảnh cái bao là một trong những sáng tạo độc đáo của tác giả. Nó bao hàm và gợi ra cho người đọc những ý nghĩa sau:

- Nghĩa đen: Vật dùng để bao, gói, đựng đồ ..

- Nghĩa bóng: Lối sống và tính cách của Bê li cốp

- Nghĩa tượng trưng: Kiểu người trong bao, lối sống trong bao - một kiểu người, một lối sống không chỉ đã và đang tồn tại ở nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX mà còn có ý nghĩa phổ quát hơn nhiều.

Chủ đề tư tưởng của truyện: Người trong bao lên án mạnh mẽ kiểu người trong bao, lối sống trong bao hèn nhát, cá nhân, ích kỉ, hủ lậu của một bộ phận trí thức Nga và tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai của nước Nga.

4. Những đặc sắc nghệ thuật của truyện được thể hiện ở:

- Cách chọn ngôi kể: Tác giả đồng thời sử dụng cả hai hình thức người kể chuyện và nhân vật kể chuyện. Nhân vật trong truyện đồng thời cũng là nhân vật kể chuyện (Bu rơ kin) ở ngôi thứ nhất (xưng tôi). Tác giả vẫn giữa ngôi thứ ba, kể lại câu chuyện của Bu rơ kin. Nhờ cách kể như vậy, tác giả vừa đảm bảo được tính khách quan vừa vẫn thể hiện được tính chủ quan, gây được cảm giác gần gũi và chân thật của câu chuyện.

- Tạo ra cấu trúc kể truyện lồng trong truyện

- Giọng kể: giọng mỉa mai, châm biềm mà trầm tĩnh, chậm buồn, bề ngoài có vẻ khách quan, bình thản nhưng giấu bên trong sự bức xúc, trăn trở mạnh và sâu.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Bê li cốp được khắc họa mộtt cách rất điển hình – một tính cách kì quái mà chân thực từ ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động đến tính cách, lối sống.

- Biện pháp đối lập giữa các kiểu người, các tính cách và lối sống trái ngược.

- Nghệ thuật xây dựng biểu tượng: Hình ảnh cái bao và lời nói “nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao”. Hình ảnh và lời nói này đều vừa có ý nghĩa cụ thể vừa có ý nghĩa biểu tượng.

- Kết thúc truyện bằng cách trực tiếp phát biểu chủ đề qua một câu cảm thán gây ấn tượng mạnh với người đọc.

5. Người trong bao có ý nghĩa thời sự rộng rãi và sâu sắc với đương thời ở nước Nga. Không những thế, lối sống trong bao, kiểu người trong bao với những biến thể, dị bản khác nhau có ý nghĩa toàn thế giới, lâu dài cho đến tận ngày nay. Chỉ đến khi nào xã hội loài người trở nên trong sạch, lành mạnh, tự do, khi mỗi cá nhân ý thức được mục đích và cách sống thống nhất với chuẩn mực văn hóa, đạo đức của cộng đồng hiện đại, .. thì lối sống trong bao mới triệt để chấm dứt.

19 tháng 2 2016
 
 
 

















1. An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 - 1904) xuất thân trong một gia đình lao động bình dân ở tỉnh Ta-gan-rốc. Ông là nhà văn Nga kiệt xuất trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch.

Sê-khốp, nhà văn Nga. Sinh tại tỉnh Ta-gan-rốc, miền Nam nước Nga, trong một gia đình lao động bình thường. Là cháu một nông nô, con một người làm công cho một hiệu buôn, Sê-khốp đã phải phấn đấu gian khổ từ nhỏ để kiếm sống, giúp đỡ mẹ và các em, tìm cho mình một nghề nghiệp, đồng thời phát triển tài năng. Trong cuộc sống nghèo hèn ấy, Sê-khốp không ngừng vươn lên "vắt kiệt dòng máu nô lệ" để làm một con người chân chính, một nhà văn chân chính. 1884, Sê-khốp tốt nghiệp Bác sĩ y khoa. Công việc của người thầy thuốc nông thôn giúp cho nhà văn tiếp xúc với nhiều tầng lớp, hiểu biết sâu sắc tâm lí con người để sáng tạo nên một thế giới nhân vật đông đảo, đủ màu, đủ sắc, đồng thời cũng giúp nhà văn rèn luyện một lối viết sắc sảo, chính xác, gọn chắc. Sê-khốp là nhà hoạt động văn hoá xã hội ; tham gia nhiều đợt chống dịch bệnh, chống nạn đói ; mở nhiều trường học, phòng phát thuốc, phòng đọc sách, trạm cứu hoả… ; sống nhiều năm ở nông thôn, trồng cây, làm vườn, gần gũi, chăm lo sức khoẻ cho nông dân quanh vùng. Những người lao động bình thường : nông dân, người đánh xe, diễn viên, thầy thuốc nông thôn, thầy giáo, sinh viên, người làm công… là nhân vật trung tâm trong nhiều tác phẩm của nhà văn. 1890, Sê-khốp đã đi hơn bốn ngàn cây số bằng những phương tiện thô sơ đến đảo Xa-kha-lin để điều tra nghiên cứu thực tế. Đảo này là nơi giam giữ đày ải dã man các tù nhân, nhân dân địa phương sống rất khổ cực. Sê-khốp đã làm việc liên tục suốt ba tháng, ghi chép khoảng 9.000 phiếu về khoảng 9.000 trường hợp nạn nhân của chế độ độc đoán của Nga hoàng. Ông đi thăm mọi nhà, trò chuyện với mọi người, chứng kiến đủ các hình thức nhục mạ và huỷ diệt con người. Ông viết những tác phẩm tố cáo chế độ tù ngục, gây một tiếng vang lớn trong xã hội. 1900, Sê-khốp được bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Nga, nhưng năm 1902 ông tuyên bố khước từ danh hiệu này để phản đối Nga hoàng không chấp nhận việc bầu Go-rơ-ki vào Viện Hàn lâm. Sê-khốp nổi tiếng là một người khiêm tốn, tế nhị, yêu thương giúp đỡ mọi người. Ông qua đời trong khi đang điều dưỡng bệnh phổi tại một tỉnh ở Đức, bên cạnh người vợ thân yêu Ôn-ga Kơ-ni-pe, nữ nghệ sĩ của Nhà hát nghệ thuật Mát-xcơ-va. Thi hài của nhà văn được đưa về Mát-xcơ-va. (Đỗ Hồng Chung, Từ điển văn học, Sđd)

2. Truyện ngắn Người trong bao (1898) được Sê-khốp viết trong bối cảnh cả xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề cuối thế kỉ XIX. Câu chuyện nói về một người điển hình về chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược  đây là một phát hiện đặc sắc có tính triết lí và khái quát nghệ thuật cao của nhà văn.

3.Đọc hiểu

Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX. Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.
Viết trong bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nông nô bảo thủ nặng nề thế kỉ XIX, truyện ngắn Người trong bao đã phản ánh một cách chân thực sinh động bộ mặt xã hội và hình ảnh con người. Tập trung vào chủ đề “con người bé nhỏ”, Sê-khốp bên cạnh sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, còn phê phán nghiêm khắc những tật xấu của họ. Đặc biệt, môi trường xã hội bảo thủ nặng nề đã đẻ ra những thứ sản phẩm người “quái thai”, “kì dị” rất đáng phê phán và loại bỏ. Hình tượng “người trong bao” là một phát hiện nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh con người mắc chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược đến nỗi sống và chết một cách thảm hại đã khái quát một triết lí sâu sắc tiếp nối chủ đề “con người thừa” trong văn học Nga suốt thế kỉ XIX.

Nhân vật Bê-li-cốp – "người trong bao", được nhà văn xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật phong phú. Nhà văn vừa miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật, vừa sử dụng lời đối thoại trực tiếp của nhân vật đi kèm với lời người kể chuyện tạo cho người đọc có cái nhìn toàn diện về nhân vật.

Cách miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật Bê-li-cốp khá đặc biệt thể hiện một sự quan sát chi tiết, kĩ lưỡng. Lúc nào cũng vậy, Bê-li-cốp đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ông ở trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt để trong bao và chiếc dao nhỏ gọt bút chì cũng ở trong bao. Bê-li-cốp với mắt đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, ngồi xe ngựa thì thu mình lại. Có vẻ như một bộ dạng hài hước đến phi lí nhưng ngay cả bộ mặt của hắn “dường như cũng ở trong bao”. Hình ảnh cái bao như một ám ảnh đối với người kể chuyện khi tả lại chân dung Bê-li-cốp. Tưởng như cái bao đó là một tấm vỏ đáng sợ gói chặt hắn đến ngạt thở, làm tấm ngăn cách hắn với cuộc sống bên ngoài. Người kể chuyện vẫn còn kể thêm chi tiết “Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao”. Tưởng như thâm hiểm, thần bí lắm nhưng thực chất đó là một kiểu người kì quặc đến quái dị. Ngay cả “thói quen” của hắn cũng rất lạ. Việc đi hết nhà này đến nhà khác không nói không rằng, mắt nhìn xung quanh như kiếm vật gì rồi lại cáo từ làm người ta hoảng sợ. Hắn cho đó là cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Sự im lặng – “trong bao” ấy như hàm chứa trong đó một sự bảo thủ trì trệ, ngu dốt, bạc nhược đến thảm hại.

Tự giam mình trong bao, hắn sống cũng rất “thảm hại”. Buồng ngủ “chật như cái hộp”, cửa sổ đóng kín mít, khi ngủ “kéo chăn trùm đầu kín mít”... Nhưng Bê-li-cốp nằm trong chăn rồi vẫn thấy sợ. Một nỗi sợ vô hình bao trùm hắn. Thức, hắn sợ. Mơ, hắn cũng sợ. Những giấc mơ khủng khiếp để lại cho hắn nét mặt tái nhợt, rầu rĩ. Tâm lí sợ hãi giống như một bóng ma vây lấy hắn, nhưng kì lạ là các nhân vật khác cũng hoảng sợ “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”. Một sự mê muội hoang tưởng của những kẻ hèn yếu. Những kẻ tự giam mình trong vỏ ốc cá nhân ích kỉ bạc nhược, những kẻ không dám đấu tranh vượt lên chính mình. Hình ảnh dân chúng trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây đâm ra sợ hãi khiến người đọc có những liên tưởng thú vị. Đây phải chăng là diện mạo chung cho cả xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng bảo thủ khắc nghiệt. Một bầu không khí u ám đến ngạt thở mà tất cả đều tự nhốt mình trong bao. Cả xã hội – ở mức độ này hay mức độ khác, đều là người trong bao.
Cách đối thoại trực tiếp của Bê-li-cốp với Cô-va-len-cô càng bộc lộ rõ hơn tính cách “người trong bao”. Lại là một chuyện phi lí khi Bê-li-cốp cho rằng đi xe đạp “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Vẫn là một sự nhận thức mê muội, nhảm nhí, một sự bảo thủ đến ngu dốt, nhưng khi hắn “tái mặt”, khi động đến chuyện “cấp trên”, “chính quyền” thì tính cách của Bê-li-cốp lại có một biểu hiện khác. Hắn chính là một kẻ bạc nhược, một sản phẩm dị hợm của xã hội bảo thủ. Những con người như Bê-li-cốp là những công cụ đắc lực của xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng, những kẻ ngu dốt lại có tài bợ đỡ, luồn cúi. Hình ảnh “cấp trên”, “chính quyền” chính là bóng ma của “quyền lực” bao phủ câu chuyện.

Cái ngã lộn nhào và cái chết của Bê-li-cốp được tác giả thuật lại bằng giọng điệu hài hước. Mọi việc diễn ra “như không”. Bê-li-cốp không quan tâm tới việc ngã có đau không, có xây xước gì không mà điều đầu tiên xem “cặp kính có còn nguyên vẹn không”. Hắn không quan tâm đến việc ngã như thế nào mà chỉ sợ ai đó đã trông thấy lúc hắn ngã thì thật là “kinh khủng”. Hắn sợ mình là trò cười nhưng nỗi “sợ” của hắn đã biến hắn thành một tên hề đáng cười nhất. Hắn run rẩy trong nỗi sợ mù quáng và cũng chết trong sự mù quáng ấy. Quả thực, tiếng cười của Va-ren-ca đã chấm dứt cuộc đời Bê-li-cốp. Va-ren-ca cười khi cái bao che phủ con người Bê-li-cốp bị rách toạc, hình ảnh người trong bao lộ mặt. Mọi sợ hãi của Bê-li-cốp đã thành sự thực. Không phải chết do cú ngã, hắn lên giường và không dậy nữa. Hắn chỉ đáp “không” hoặc “có” rồi đến im lặng vĩnh viễn.

Cái chết của Bê-li-cốp là tất yếu, chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thai trong xã hội. Đây cũng là điều khiến mọi người thấy “nhẹ nhàng, thoải mái”. Nhưng bi kịch chính ở chỗ hắn chết trong sự thảm hại mà vẫn “tươi tỉnh lắm”, mừng như “được chui vào trong cái bao”. Cái nhìn hiện thực sắc sảo của tác giả đã khai thác rất sâu tính bi kịch của câu chuyện. Một kẻ ngu dốt hoang tưởng, bạc nhược hèn yếu nhưng lại không nhận ra được chính mình. Một kẻ bị ru ngủ trong sự bảo thủ trì trệ.

Ở cuối truyện, lời người kể chuyện mang đầy sắc thái chiêm nghiệm : “Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa”. Hình ảnh người trong bao không chỉ có một mà là số đông, là cả một xã hội bạc nhược, nhát sợ. Cái xã hội mà bóng ma chuyên chế nông nô bao phủ lấn át. Sự xuất hiện của những con người kiểu Bê-li-cốp đã kìm hãm sự phát triển phồn thịnh của đất nước, đẩy nước Nga chìm đắm trong màn đêm đen tối lạc hậu. Lời của bác sĩ I-van có ý nghĩa thức tỉnh sâu xa. Ý thức được bản thân mình là kiểu “người trong bao” để rồi quyết tâm phá bỏ nó là cả một quá trình nhận thức tiến bộ. “Không thể sống mãi như thế được” – câu nói của I-van đã thắp sáng niềm tin tươi sáng vào sự phát triển của dân tộc. Trong ánh hoàng hôn ảm đạm của nước Nga nông nô chuyên chế, sự dũng cảm loại bỏ cái xấu xa hèn kém của chế độ Nga hoàng đã khẳng định tầm nhìn vĩ đại của Sê-khốp, khẳng định ông là một bậc thầy của cách mạng hiện thực Nga cuối thế kỉ XIX.


Xem thêm: /tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=109274#.Vsa_UZAVWgs#ixzz40ayQDAxb

29 tháng 12 2018

=> Đáp án C

1 tháng 9 2016

bn vào địa chỉ này nhé : http://www.soanbai.com/2013/09/huong-dan-soan-bai-tu-tinh-ho-xuan-huong.html    và    http://www.soanbai.com/2013/09/huong-dan-soan-bai-thu-dieu-nguyen-khuyen.html

2 tháng 3 2016

TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1 :

Trong truyện ngắn " Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn cao và quản ngục, trên bình diện xã hội họ hoàn toàn đối lập nhau. Một người là "tên đại nghịch", cầm đàu nổi loại nay bị bắt, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thường. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm, nhơ bẩn, tác giả đã tạo nên một cuộc kì ngộ đáng nhớ và kì lạ

Tình huống truyện độc đáo thể hiện ở mối quan hệ éo le; đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong tình thế đối nghịch : tử tù và quản ngục. Chính tình huống này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng " biệt nhỡn liên tài" của  viên quản ngục. Từ đó mà chủ đề tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.

Câu 2 :

Trong "Chữ người tử tù", ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện ở ba phẩm chất

- Huấn Cao là một con người tài hoa siêu việt, đầy uy lực. Ông có tài viết chữ, chữ ông " đẹp và vuông lắm". Nó nức tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Nó khiến cho viên quản ngục say mê đến mê muội, ngày đêm mong có được chữ của ông để treo trong nhà

- Khí phách hiên ngang, bất khuất, Huấn Cao là một trang anh hùng, dũng liệt. Ông là một kẻ " đại nghịch" đã đành, ngay cả khi bắt đầu đặt chân vào nhà lao này, ở ông vẫn giữ được cái thế hiên ngang. Sự ngang tàng của Huấn Cao còn thể hiện ở thái độ không quỵ lụy trước cường quyền và tù ngục.

- Huấn Cao còn là một người có "thiên lương" trong sáng và cao đẹp. Nó thể hiện ở thái độ tôn trọng trước một nhân cách đẹp ( viên quản ngục), trước một người nghệ sĩ có cái sở nguyện trong sáng. Ông sẵn sàng cho chữ, sẵn sàng chia sẽ những lời gan ruột, chân thành với viên quản ngục trước khi vào kinh thành thụ án. Đó là sự ứng xử đáng trọng của một nhân cách cao cả

Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những quan niệm của mình về cái đẹp. Trong truyện, Huấn Cao được xây dựng không chỉ là người có tài mà còn có tâm, có thiên lương. Huấn Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, coi thường cái chết và tiền bạc mà còn có tấm lòng yêu quý cái thiện, mềm lòng trước tấm lòng " biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục và thậm chí còn biết sợ cái việc " chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Có thể nói đó là hai mặt thống nhất  của một nhân cách lớn. Như thế, trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của tác giả.

Câu 3 :

Dù có thể được coi là nhân vật phụ, song qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng được coi là một nhân vật độc đáo

- Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ máy thống trị đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh cao, tao nhã - thú chơi chữ. Ngay từ khi còn trẻ, khi mới " biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", ông đã có cái sở nguyện " một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối da ông Huấn Cao viết"

- Viên quản ngục là người biết trân trọng giá trị con người. Điều đó thể hiện rõ qua hành động " biệt đãi" của ông đối với Huấn Cao - một kẻ tử tù đại nghịch

- Cái sở nguyện thanh cao muốn có được chữ của Huấn Cao để treo bất chấp nguy hiểm, cùng thái độ thành kình đón nhận chữ từ tay Huấn Cao cho thấy, viên quản ngục là một người có tấm lòng " biệt nhỡn liên tài", là người biết trân trọng những giá trị văn hóa.

- Diễn biến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy đây cũng là một nhân cách đẹp, một " tấm lòng trong thiên hạ", tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là " một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn độn"

- Có thể nói, viên quản ngục là một người biết giữ " thiên lương", biết trân trọng giá trị văn hóa và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng thật lòng cái đẹp

Câu 4 :

Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được thể hiện nổi bật và tập trung nhất trong đêm ông cho chữ viên quản ngục. Bằng khả năng sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sắc sảo, Nguyễn Tuân đã rất dụng công để khắc tạo lên một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", trong đó, nổi bật là vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ  hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao

Có thể nói cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" vì :

- Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một hoạt động sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ươt, hôi hám của nhà tù. Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn; thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác ngự trị

- Người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh để chịu án tử hình. Trong cảnh này, người tù thì nổi bật lên uy nghi, lồng lộng, còn quản ngục, thơ lại thì lại khúm núm, run run bên cạnh người tù đang bị gông xiềng kia

- Trật tự, kỉ cương trong nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược : tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm, vái lại tù nhân

Thì ra, giữa trốn ngục tù tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà người tử tù làm chủ. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với với cái ác,.. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng

Câu 5 :

Các nhân vật của Nguyễn Tuân tuy chỉ được miêu tả trong những khoảnh khắc nhưng đó là những khoảnh khắc đặc biệt, bởi thế mà họ đều rất ấn tượng.

Nhân vật rất giàu tính cách, rất ngang tàng, rất tài năng nhưng cái tâm cũng luôn trong sáng. Đó là những biểu tượng về cái đẹp, là những con người hoàn mĩ

Trong truyện, đáng chú ý nhất là đoạn miên tả cảnh vật và không khí thiêng liêng, cổ kính của cảnh cho chứ. Đoạn văn này thể hiện tài năng sắc sảo của Nguyễn Tuân không chỉ trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện mà còn ở khả năng sử dụng bút pháp đối lập tạo dựng cảnh. Chính nhờ thủ pháp này mà cảnh tượng hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ của nó.

 

19 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Vích-to Huy-gô (1802-1885) là một thiên tài của văn học Pháp và thế giới. Thời thơ ấu,ông phải trải qua những giằng xé trong tình cảm do giữa cha và mẹ ông có mâu thuẫn. Tuy nhiên với trí thông minh và năng khiếu đặc biệt của một cậu bé được coi là "thần đồng", Huy-gô đã tận dụng được kho sách quý báu cùng sự giáo dục sáng suốt của mẹ, cũng như bao ấn tượng mãnh liệt từ những chuyến hành trình vất vả theo cho chuyển quân từ nơi này đến nơi khác. Huy Gô sống trong một thế kỉ đầy bão tố cách mạng. Vì thế mà những sáng tác của ông là những "tiếng vọng âm vang của thời đại". Tên tuổi Huy gô đã được cả thế thới ngưỡng mộ không chỉ vì những kiệt tác văn chương mà còn do những hoạt động không ngừng nghỉ của ông vì sự tiến bộ của loài người.

2. Tác phẩm

Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền có một vị trí đặc biệt trong diễn biến cốt truyện về nhân vật trung tâm, đó là: lần đầu tiên,ông Ma đơ len, khi buộc phải xuất đầu lộ diện, đã chọn một giải pháp quyết liệt để đối phó với cường quyền và tìm lối thoát cho nạn nhân. Nếu trong Những người khốn khổ Huy gô nhiều lần miêu tả "cuộc đấu tranh vĩ đại giữa ông Thiện và ông Ác" thì đoạn này có thể coi như một pha mở đầu cuộc đấu tranh ấy của nhân vật trung tâm.

Tuy chỉ là một đoạn trích, nhưng Người cầm quyền khôi phục uy quyền có tính chất rất tiêu biểu cho bút pháp của Huy gô. Đồng thời, qua đó người đọc cũng thấy được những nét đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn.

II. Trả lời câu hỏi

1. Như đã nói, ở đoạn trích này thể hiện nổi bật cho những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong những đặc trưng ấy, phải khẳng định rằng việc xây dựng nên hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau là một trong những dấu hiệu quan trọng. Trong đoạn trích cũng như trong toàn thiên truyện, Giăng Van-giăng được lý tưởng hóa, tuyệt đối hóa trong vẻ đẹp tâm hồn. Nhân vật giống như một anh hùng trong truyện cổ, đối lập với cường quyền. Trong khi đó ở tuyến bên kia, Gia-ve lại là một kẻ đại ác.

Ở đoạn trích này Huy-gô cũng đã rất thành công trong việc làm nổi bật hình tượng với hao phẩm chất hoàn toàn đối lập. Dứng trước cái ác, chỉ với mong ước có thêm thời gian để đưa Cô-dét về cho Phăng-tin mà Giăng Van-giăng đã sẵn sàng chấp nhận tất cả. Đối lập với Giăng Van-giăng là hình ảnh một Gia-ve độc ác. Trong đoạn trích, sự độc ác của Gia ve mới chỉ được thể hiện bằng vẻ mặt đắc chí và bằng những lời nói cộc lốc, thô lỗ. Nhưng khi kịch tính của truyện dần lên cao, hẵn đã sẵn sàng chà đạp lên tất cả. Với hắn điều quan trọng nhất không thể nào đánh mất cơ hội tiêu diệt Giăng Van giăng.

2. Với mỗi nhân vật chính trong trích đoạn Huy gô lại thành công trên những phương diện nghệ thuật khác nhau.

Khi thể hiện tính cách  của Gia ve, Huy gô đã sử dụng rất nhiều những so sánh và ẩn dụ. Đó đều là những so sánh có tính chất phóng đại và đều nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Tất cả những hình ảnh so sánh ấy giúp ta hình dung một cách rất sâu sắc về Gia ve với những nét điển hình của một tên ác thú.

Đối lập với Gia ve, ở Giăng van giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy chiếu ẩn dụ. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tói đoạn kết, những chi tiết về Giăng van giăng lại giúp ta có thể liên tưởng đến nhiều ý nghĩa biểu tượng mang tính lí tưởng.

Những lời nói, hành động và ý nghĩa của Giăng van giăng trong đoạn cuối gợi lên những vẻ đẹp phi thường, lãng mạn. Hình ảnh đó nổi bật lên trên cái ác và cường quyền. Nó là nơi quy tụ và phát tiết của tình thương yêu.

3. Đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của nhà văn. Thuật ngữ văn học dùng để chi tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (Trữ tình ngoại đề). Khái niệm này được giải thích như sau:

"Trữ tình ngoại đề chỉ một trong những yếu tố ngoài cốt truyện trong tác phẩm tự sự, là những đoạn văn đoạn thơ mà tác giả hay người kể chuyện trực tiếp bộc lộ những tình cảm, ý nghĩa, quan niệm của mình đối với nhân vật, đối với cuộc sống thể hiện trong tác phẩm...

Trữ tình ngoại đề góp phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm làm sáng tỏ thêm hình tượng nhân vật.

4. Đoạn trích này thể hiện nhiều dấu hiệu nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn

- Những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc: phóng đại, so sánh và tương phản,

- Tuy nhiên điều quan trọng hơn là tất cả những biện pháp này đều bị chi phối bởi đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn đó là trong khi đối lập thực tế với lí tưởng, chủ nghĩa lãng mạn hướng về khuynh hướng khẳng định thế giới lí tưởng.

- Thế giới lí tưởng của Huy gô có thể nhuốm màu ảo tưởng, song điều điều này vẫn bồi đắp cho con người một tình cảm và lí tưởng đẹp đẽ, không thể thiếu.

 

 

25 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tình Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê rồi vào Huế học trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông rồi tham gia mặt trận Việt Minh (1941). Sau Cách mạng, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, từng giữ nhiều trọng trách khác nhau, đồng thời có những đóng góp quan trọng trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

Thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Nó tất nhiên là cái điệu chung của thơ  mới, song nỗi buồn trong thơ Huy Cận có sắc thái riêng.

2. Tác phẩm

Toàn bộ Tràng Giang đều thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai  khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh. Ở bài thơ ngày, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ, hài hòa qua các khổ thwo, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.

II. Trả lời câu hỏi

1. Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn đây chính là nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".

2. Âm hưởng chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.

3. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang vô biên, đậm chất Đường thi. Chất liệu để tạo nên bức tranh đó là hệ thống các hình ảnh ước lệ thường được sử dụng trong thơ cổ.

Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. "Tràng giang" chứ không phải trường giang mặc dù hai từ đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ, đặc biệt nó khơi gợi được xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian.

Trong khổ thơ thứ hai, chính Huy Cận đã thừa nhận: ở trong câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu", ông đã học chữ "đìu hiu" trong bản dịch Chinh phụ ngâm (Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò). Hơn thế, các hình ảnh đối lập, hình ảnh "chợ chiều vãn" gợi cái buồn da diết, không gian vắng lặng, cô tịch rất cổ điển.

Ở khổ thơ thứ ba và khổ cuối đều có thể tìm thấy những nét gợi nên hình ảnh bức tranh thiên nhiên trường gặp trong thơ xưa. Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những âm hưởng kì lạ do tác giả chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở hai câu thơ cuối. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ đến quê hương - Hoàng Hạc Lâu, Huy Cận không cần có khói sóng - tức không cần cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn.

Sự hòa quyện của hai hệ thống hình ảnh vừa cổ điển vừa gần gũi, thân thuộc nêu trên tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà quen thuộc.

4. Trước Huy Cận, đã có không ít các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió qua thơ văn như Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà... Trước Tràng giang, Huy Cận cũng đã từng viết về nỗi buồn sông núi- nỗi buồn của người dân thuộc địa khi giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn này, nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.

5. Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/lớn lao; không/có...

- Sử dụng thành công các loại tự láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp...). Các biên pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...

26 tháng 2 2016

I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

a. Cuộc đời
–     Huy Cận (1919 -2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận
–    Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ Mới
–    Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân
–    Quê làng Ân Phú huyện Lương Sơn tỉnh Hà Tĩnh
–    Hồi nhỏ ông học ở quê sau đó rời vào Huế học, sau đó là ra hà Nội học tại trường Cao đẳng canh nông
–    Từ năm 1942 ông tham gia cách mạng và tham gia nhiều cuộc hội nghị quan trọng
–    Không những thế nhà thơ Huy Cận còn làm cộng tác của nhóm Tự lực văn đoàn
b.     Sự nghiệp:
–   Trước cách mạng tháng Tám: 
•    Tác phẩm tiêu biểu: lửa thiêng, kinh cầu tự, vũ trụ ca…
•    Phong cách nghệ thuật của ông thời kì này là:  Thơ thời kì này mang một nỗi niềm u uất người ta gọi là nỗi sầu vạn kỉ
–    Sau cách mạng tháng Tám: 
•    Tác phẩm tiêu biểu: trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, bài thơ cuộc đời, hai bàn tay em, những năm sáu mươi…
•    phong cách nghệ thuật thời kì này của Huy Cận mang niềm vui hồ hởi hơn so với kì trước cách mạng tháng Tám, ông cũng mang một tâm trạng chung với toàn dân tộc đó là niềm vui xây dựng chế độ mới, và đấu tranh vì hòa bình dân tộc

2.    Tác phẩm

a.    Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ Huy cận là một người có tâm hồn phong phú, ông dễ nhạy cảm với những khoảnh khắc của cuộc đời. điều làm nên tứ thơ của Tràng Giang đó chính là mỗi chiều chủ nhật ông thường đạp xe một mình lên đê ngắm dòng sông Hông lặng lẽ trôi, bốn bên bờ cát lặng, những hình ảnh thiên nhiên như lạc vào trong mắt ông. 
b.    Nhan đề:
–    Ban đầu nhà thơ đặt tên bài thơ là chiều bên sông, nhưng thấy đặt như thế thì cụ thể quá không có sức gợi tả 
–    Về sau Huy Cận đặt lại thành Tràng Giang
–    Tràng Giang có nghĩa là sông dài nhưng nhà thơ lại không đặt là sông dài hay trường giang
–    Tràng Giang là một từ hán Việt cho nên nó sẽ tạo được trang trọng cổ kính cho dòng sông Hồng
–    Thêm nữa vần “ang” được điệp lại trong hai từ -> âm hưởng như âm vang gợi cái mênh mông bao la rộng lớn của dòng sông Hồng
c.    Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
–    Hai chữ bâng khuâng thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ: cảm giác bâng khuâng trước tràng Giang rộng lớn
–    Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ

soan bai trang giang huy can

II.    Tìm hiểu chi tiết
1.    Bốn câu thơ đầu: cảnh nước thuyền và sóng

–    sóng Tràng Giang không ồn ào ồ ạt vỗ bờ mà thay vào đó gần như nó ở trạng thái tĩnh lặng chỉ gợn thôi. Cái chữ “gợn” thật mang nhiều tâm trạng
–    từ láy “điệp điệp” thể hiện nỗi buồn giằng giặc khó mà có thể thoát khỏi nó. phải chăng nỗi buồn của nhà thơ đang chế ngự chính nhà thơ, khiến nhà thơ không thể nào thoát khỏi nó được
–    Con thuyền xuôi hai mái nước song song, con thuyền thì lướt trên sóng, rẽ nước mà đi
–    Biện pháp nghệ thuật đối “về” >< “lại” -> sự chia li mang nỗi sầu trăm ngả
–    Một cành củi khô lạc mấy dòng -> sự cô đơn, giống như một đời người trôi dạt phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn của dòng đời
->    Bốn câu thơ gơi lên một nỗi buồn trăm ngả, cảnh tượng sông Hồng hiện lên nên thơ nên họa, Cảnh có đẹp đấy nhưng mà lại buồn man mác, nỗi buôn ấy không khiến cho người ta đau đáu trong lòng nhưng nó lại cứ bủa vây giằng giặc không chịu thôi

2.    Bốn câu thơ tiếp:

–    “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” -> sự thưa thớt, sự nhỏ bé -> cô đơn vắng lặng
–    Tiếng chợ chiều vãn nhỏ nhẹ->sự tàn úa giống như phiên chợ tan, đâu đó gần đây tiếng chợ chiều vang lên, phải chú ý lắm, phải tĩnh lặng lắm thì mới nghe được tiếng chợ chiều đó
–    Không gian ba chiều được mở ra , nhà thơ không dùng nắng cao chót vót mà dùng từ sâu chót vót để cho ta thấy được không gian bà chiều nhìn từ dưới lên bầu trời như sâu thẳm
–    Sông càng dài càng rộng thì bến đò người lái càng thấy cô đơn, cô liêu
->    Những hình ảnh bên bờ cũng trở nên buồn thiu khi mọi vật hiện lên đều thưa thớt và nhỏ bé. Nó gợi đến cho ta sự cô đơn đến ghê người. Không gian như cao hơn, hun hút hơn khiến cho con người càng nhỏ bé

3.    Bốn câu tiếp:

–    Những đám bèo hàng nối hàng cứ trôi lênh đênh gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người lênh đênh trên dòng đời
–    Mênh mông như thế nhưng không có một chuyến đò ngang
–    Không có cầu để qua bên kia sông tìm một chút niềm thân mật
–    Mà chỉ lặng lẽ có một chút bờ cỏ xanh rồi đến bãi cát vàng
->    Không gian mênh mông như choáng ngợp lấy người nghệ sĩ, trên sông không một cây cầu bắc ngang để cho người qua lại để cho sông không còn vắng lặng như thế này nữa. Sông cũng không có lấy nổi một chuyến đò chỉ có bãi cát vàng với những bãi cỏ xanh làm bạn với nhau mà thôi.

4.    Bốn câu cuối:

–    về chiều những lớp mấy đùn lên trắng xóa như những núi bạc
–    Hình ảnh cổ điển: chim nghiêng cánh nhỏ đón buổi chiều buông xuống
–    Lòng nhớ quê của tác giả bỗng dợn lên vời con nước -> ý thơ được lấy gần giống với câu thơ của Thôi Hiệu, những ở đây nhà thơ không cần đến khói sóng tác động vẫn cứ dợn dợn nhớ nhà
->    Khổ cuối như kết lại những gì mà nhà thơ muốn thể hiện, nỗi buồn kia chính là nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.

III.    Tổng kết

–    chàng sinh viên trường Canh Nông đã có những phút giây đắm mình trong không gian rộng lớn của Tràng Giang nhưng trong anh lúc ấy cũng xuất hiện thường trực, một nỗi lo âu về cuộc đời mình. đó còn là nỗi nhớ nhà, là nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám

23 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Đạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy.

Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của tầng lớp tiểu tư sản thành thị; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại; là nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Sáng tác văn chương của Tản Đà chủ yếu vẫn theo các thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ... Thơ Tản Đà hay nói về cảnh trời. Điều đó đã trở thành mô típ nghệ thuật có tính hệ thống trong thơ ông. 

2. Tác phẩm

Bài thơ Hầu trời ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái xót đau. Nười tri thức có lương tri không thể không chấp nhận vào cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu.

Qua câu chuyện Hầu trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân - một "cái tôi" ngông, phóng tung, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:

                                Đêm qua chẳng biết có hay không

                               Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

                               Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

                               Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng "chẳng biết có hay không". Đó là cách nhập đề là, một sự hư cấu nghệ thuật. Nó là cái cớ hoàn hảo để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cỗi mộng" của mình.

2. Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và các vị chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc, chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà. Ông trời thì khen rất nhiệt thành, để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa.

Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ "bản ngã" cái tôi đó. Tản Đà đã rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thương đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ, tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện.

3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực:

                                  "Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

                                   Trần gian thước đất cũng không có

                                   ...

                                   Sức trong non yếu ngoài chen rấp

                                   Một cây che chống bốn năm chiều".

Trong đoạn thơ này nhà thơ nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó chứng tỏ Tản Đà lãng mạn nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời.

Xúc động nhất trong đoạn thơ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về cuộc đời của nhà thơ và của nhiều văn sĩ khác. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ. Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà.

Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng scahs nát và một be rượu.

4. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.

- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.

- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tếm gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ.

- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.

- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.

26 tháng 2 2016

Đề bài: Soạn bài Hầu trời của Tản Đà lớp 11
I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

–    Tản Đà (1889 -1939) con người của hai thế kỉ
–    Tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ nhà văn nhà viết kịch nổi tiếng của văn học Việt Nam
–    Bút danh Tản Đà được ghép từ núi Tản sông Đà quê hương ông
–    Ông xuất hiện như một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam, với ngòi bút phóng khoáng, cái tôi tự tin và xông xáo trên nhiều lĩnh vực
–    Sự nghiệp:
•    Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ An nam tạp chí, hầu trời… các bài thơ dùng nhiều thể loại thơ khác nhau rất phong phú và đa dạng
•    Ngòi bút cũng thể hiện cái ngông nghênh của cá nhân

2.    Tác phẩm

a.    Hoàn cảnh sáng tác: vào những năm đầu của thế kỉ XX, lãng mạn trở thành những khúc thơ tâm tình của những người tri thức, bấy giờ xã hội thực dân phong kiến lại đầy những u hám, tối tăm và bất công. Người trí thức muốn chống lại song cũng chưa ai có dũng khi để làm. Nhà thơ Tản Đà đã sáng tác bài thơ này để thể hiện tấm lòng của mình
b.    Xuất xứ: in trong tập chơi xuân
c.    Bố cục: 3 phần
–    Phần 1: 20 câu thơ đầu: kể chuyện thi sĩ được mời lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên cùng nghe
–    Phần 2: tiếp đến Đế Khuyết: cuộc đọc văn và đối thoại với trời
–    Phần 3: còn lại: ra về và suy nghĩ

II.    Tìm hiểu chi tiết
1.    Kể chuyện thi sĩ lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên

–    Nhà thơ kể về chuyện mình lên tiếng, tự hỏi mình không biết thật hay mơ nhưng thật hồn thật phách thật thân thể
–    Khi ấy là canh ba mà nhà thơ chưa ngủ được bèn dậy đun nước uống trà và ngâm thơ làm văn
–    Bỗng có hai cô tiên xuống nói rằng chẳng hay làm gì mà không ngủ để cho trời đang mất ngủ đang mất, có hay thì lên đọc cho trời nghe coi
–    Tản Đà tỏ ra không sợ sệt điều gì mà tự tin cùng hai cô tiên lên đọc văn cho trời nghe
->   Cách mở đầu câu chuyện bằng thơ của Tản Đà quả thật rất hấp dẫn, nó mang đến cho người đọc cảm giác như quay trở về với cổ tích, truyện dân gian

soan bai hau troi tan da

2.    Cuộc đọc thơ cho trời và đối thoại với trời

a.    Khi mới lên
–    Đi theo hai cô tiên lên đường mây vù vù không có cánh mà cũng có thể bay được
–    Cảnh thiên môn đẹp trang trong đỏ chói
–    Nhà thơ thấy trời hành lễ cúi xuống lậy thì trời sai hai cô tiên lôi dậy lấy ghế mây ra cho ngồi  thiết đãi như một vị khách quý chứ không phải lên để bắt tội
–    Sau đó lại pha trà trời cho nhà thơ uống để nhấp giọng đọc văn
–    Nhà thơ có trà trời nhấp giọng cùng với sự đông đủ của trư tiên lại càng hăng hái đọc, đọc hết từ văn vần sang văn xuôi, sang cả tiểu thuyết 
->    Nhà thơ quả là một người có tài, xông xáo trên nhiều lĩnh vực
b.    Thái độ của trơi và chư tiên khi nghe nhà thơ đọc văn
–    Tâm thì như nở dạ, cơ lè lưỡi vì ngạc nhiên. Trời thì khen lấy làm hay
–    Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày, Thỏ Ngọc đứng lắng tai nghe
–    Nhà thơ tiếp tục nhắc đến những tạp thơ của mình.Nhà thơ than về bán văn dưới hạ giới trời còn khuyên mang lên đây bán chợ trời
–    Trời phê cho văn của Tản Đà những lời phê có cánh nhất, chau chuốt như sao băng, hùng mạnh như mây chuyển
c.    Đối thoại của trời và nhà thơ
–    Khi đọc xong, khen xong trời mới hỏi đến tên tuổi của nhà thơ. Khi ấy nhà thơ mới giới thiệu về quê quán cũng như tên thật của mình
–    Nhà trời cho xem lại sổ sách và nhận ra người này bị đày xuống vì tội ngông nhưng thực chất ra không phải là ngông mà là trời sai xuống làm việc lương thiện cho thiên hạ  trách nhiệm trọng trách của những nhà văn nhà thơ
–    Nhà thơ kể về những nỗi khó khăn của mình nhưng trời khuyên cứ về dưới, lòng thông không sợ gì
–    Xong việc sẽ cho trở về Đế Khuyết
->   Qua đoạn thơ này ta thấy tài thơ văn của Tản Đà quả thật là một bậc thiên tài. Ông tự tin nhận văn mình là hay. Đồng thời qua đây nhà thơ cũng thể hiện được trách nhiệm của nhà thơ nhà văn với cuộc sống này

3.    Cảnh ra về và suy ngầm của nhà thơ

–    Nhà thơ được tiễn về rất đàng hoàng
–    Trư tiên còn vương vấn tiễn biệt mà rơi lệ
–    Lúc về trần giới nhà thơ trông lên không còn ai, chỉ còn tiếng gà gáy và tiếng người dậy
–    Nhà thơ hối tiếc mong muốn được lên hầu trời

III.    Tổng kết

–    Bài thơ khẳng định tài năng của Tản Đà, không chỉ thông thạo thơ ca mà tác giả còn đạt được thành công trong tiểu thuyết kịch ca
–    Nghệ thuật: câu chuyện mang màu sắc cổ tích, sử dụng nhiều biên pháp nghệ thuật

25 tháng 2 2016

I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

–    Hồ Chí Minh (1890 – 1969), là búp sen xanh của làng Kim Liên – Nam Đàn – Nghê An
–    Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo cha là ông nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan
–    Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã thông minh và lớn lên đã được tiếp thu tư tưởng làm cách mạng
–    Sinh ra trong một thời đại đất nước làm nô lệ, Hồ Chí Minh đã đi theo con đường cứu nước và trở thành một vị lãnh tụ đầu tiên của nước Việt Nam ta.
–    Bác không chủ tâm làm thơ văn nhưng vì để phục vụ cho cách mạng và yêu thơ văn cho nên Bác đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị

2.    Tác phẩm:

a.    Hoàn cảnh ra đời
–    Bài thơ được viết trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Bài thơ là một bức tranh xinh xắn về miền sơn cước đồng thời toát lên ở đó vẻ đẹp của một con người cách mạng với tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ của cuộc chuyển lao, vẫn ung dung ngắm cảnh. Bài thơ không nói chuyện thép, không lên giọng thép nhưng vẫn lấp lánh chất thép
b.    Vị trí xuất xứ: nằm trong tập thơ Nhật Kí Trong tù của Hồ Chí Minh

II.    Phân tích
1.    Hai câu thơ đầu:

Cảnh núi rừng khi chiều tối và tâm trạng của nhà thơ
–    Cảnh:
•    “Chim mỏi” -> đây chính là cánh chim cổ điển, hình ảnh cánh chim trong thơ xưa đều xuất hiện vào khung cảnh buổi chiều
•    Cánh chim nhỏ kia về rừng tìm chốn ngủ, đây là hoạt động kết thúc một ngày. Trong thời gian ấy cánh chim kia đã được bay về nơi trú ngụ của nó còn nhà thơ thì vẫn phải hành xác trên con đường đầy gian khổ để đến nhà lao mới
•    ở câu hai phần dịch không sát với bản chính “cô vân” gợi sự lẻ loi một mình cô độc, còn phần dịch nghĩa lại là “chòm mây” không gợi lên được sự cô độc, đồng điệu với nhà thơ cũng đang cảm thấy khi hành trình gian khổ chỉ có một mình

->  cảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp, đó là mộ buổi chiều với mây trôi bảng lảng, cánh chim trở buổi chiều về, những hành động đang đi vào trạng thái tĩnh.
–    Tình 
•    Qua bức tranh thiên nhiên ta thấy được tâm trạng của Bác, tình yêu thiên nhiên luôn tìm đến sự hòa hợp với thiên nhiên
•    Cảnh được nhìn bằng tâm trạng nên cũng nhuốm màu tâm trạng: chim thì về nghỉ còn bác thì vẫn phải đi, cô vân kia giống như một mình Bác trên đường chuyển lao  cô đơn
•    Tâm hồn Bác luôn hướng về sự sống: cánh chim chỉ về ngủ để bắt đầu sáng mai lại hành trình kiếm ăn chứ không bay vào cõi vĩnh hằng “ Chim bầy vút bay hết- mây lẻ đi một mình”
•    Đó còn là một tâm hồn luôn hướng về đất nước, vì đất nước Bác cô gắng đi hết con đường chuyển lao chờ ngày tự do hoạt động cách mạng  đó chính là tinh thần thép của Bác.

soan bai chieu toi ho chi minh

2.    Hai câu thơ cuối

–    Cảnh:
•    “sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”
+ trong thơ cổ dưới áng chim chiều mây nổi thì xuất hiện con người đó là những đạo sĩ, ẩn sĩ lánh đời
+ Trong thơ lãng mạn: xuất hiện những con người là mỹ nhân tuyệt đẹp
+ Trong thơ bác lại chính là người lao động
•    Hoạt động gắn liền với cô gái ấy chính là hoạt động say ngô tối, cái chữ tối bộc lộ sự chăm chỉ cần mẫn của con người. đây là một hình ảnh tuyêt đẹp về cuộc đời người thiếu nữ vất vả đáng quý đáng yêu
•    Điệp vòng “ma bao túc” cho thấy công việc diễn ra thường xuyên hàng ngày
•    Từ “hồng” như làm sáng cả bài thơ, nhãn tự của bài thơ, có tác dụng mang lại tươi sáng niềm ước vọng cho ngày mai
–    Tình:
•    Nhà thơ phải là người yêu cuộc sống lắm mới có thể làm cảm nhận được cái đẹp trong công việc lao động thường ngày
•    Không những thế còn phải có một trái tim nhân hậu và một sự lạc quan tin vào tương lai tươi sáng hơn

III.    Tổng kết

–    Nhà thơ Hồ Chí Minh đã mang đến cho chúng ta một bức tranh miền sơn cước khi về tối. Cảnh tượng thiên nhiên hiện lên bàng bạc ánh chiều, sự vật hiện tượng đang chuyển từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh. Nhưng riêng có Người và cô gái xay ngô tối kia vẫn đang hoạt động. đó là một tinh thần lạc quan đáng khen ở Người

26 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Hồ Chí Minh sinh ngày 19 - 5 - 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Thuở nhỏ, người học chữ Hán trong già đình, rồi học ở trường Quốc học Huế. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) người từng có một thời gian dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) với tên gọi Nguyễn Tất Thành.

Từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc (tên hoạt động của Bác lúc đó) tham gia nhiều hoạt động cách mạng ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2/1941, Người trở về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Cách mạng thành công, Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ cộng hòa. Từ đó, người luôn đảm nhiệm những chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Người qua đời ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.

2. Tác phẩm

Chiều tối (Mộ) là bài thơ thứ 31 của tập Nhật kí trong tù. Nó được Bác sáng tác vào cuối mùa thu năm 1942 trên con đường từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Đó là một buổi chiều tối, dù đã trải qua một ngày gian lao vất vả nhưng Bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chật hẹp, bẩn thỉu.

Bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ - chiễn sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bức tranh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu của bài thơ

Chiều tối là thời khắc cuối cùng của một ngày và với một tù nhân như Bác đấy cũng là chặng cuối cùng của một ngày đày ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế dễ gây tâm trạng mệt mỏi chán chường. Vậy mà ở đây cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên. Trời về chiều lại đi giữa nơi đường núi, như một lẽ tự nhiên, người tù ngước lên cao để đón chút ánh sáng cuối cùng của ngày, đó cũng chính là lúc người bắt gặp cánh chim mỏi mệt đang tìm bay về tổ, bắt gặp chùm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Bài thơ không gợi tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm thấy rừng núi chiều tối thật âm u, không hề gợi âm thanh mà nghe thật vắng vẻ, quạnh hiu.

Câu thơ thứ hai trong bản dịch không thể hiện được hết ý của câu thơ trong nguyên tác. Câu này phải hiểu đúng là: "Chòm mây lẻ loi lững lờ qua qua lưng chừng trời". Câu thơ gợi nhớ thơ Thôi Hiệu "Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay" -  Hoàng Hạc Lâu và thơ Nguyễn Khuyến "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt" -  Thu điếu, chỉ có điều, trong thơ Bác không phải là áng mây trằng ngàn năm vẫn bay gợi sự vĩnh hằng, hay tầng mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn mà mang bao nỗi khắc khoải, mơ hồ của con người trước cõi hư không. Phải có một tâm hồn thật ung dung thu thái thì người tù mới có thể dõi theo một chòm mây thong thả giữa bầu trời bao la. Hơn thế, chòm mây như có hồn người, như mang tâm trạng. Nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ, lờ lững trôi giữa không gian rộng lớn của trời chiều.

2. Bức tranh đời sống trong hai câu thơ cuối

Nếu như trong hai câu thơ đầu cảnh vật mang tính ước lệ cổ điển thì hình ảnh ở trong hai câu thơ cuối lại được gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Và chính nét vẽ đời thường này đã làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự đối sánh với hình ảnh cánh chim và chòm mây ở trên, hình ảnh cô gái xay ngô, hình ảnh con người nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên.

Bức tranh trong hai câu thơ cuối vẽ cảnh người thiếu nữ xóm núi trong lao động. Trong hoàn cảnh đầy tâm trạng, Bác đã quên đi cảnh ngộ đau khổ của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Câu thơ cho thấy sự quan tâm và tình yêu thương của Bác với những người lao động nghèo. Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động và chính cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng tôn trọng biết bao giữa núi rừng chiều tối âm u,heo hút - nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui hạnh phúc và hạnh phúc trong lao động của con người.

Hai câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu đều và khỏe khắn, đó là do sự vắt dòng giữa cụm từ "ma bao túc" ở câu 3 với "bao túc ma hoàn" ở câu 4. Hình ảnh cô gái và bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia đình, ngô xay xong, bếp lửa đỏ hồng lại tượng trưng cho công việc, sự nghỉ ngơi và sum họp - thấp thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước. 

3. Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của bài thơ

- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển vừa có nét hiện đại. Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.

- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm. Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ  khỏe khoắn. ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng , có thể làm sáng lên cả bài thơ, ví như chữ hồng trong câu thơ cuối chẳng hạn.

18 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Hoài Thanh (1909 - 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng, Hoài Thanh từng tham gia phong trào yêu nước và bị bắt.

Hoài Thanh viết văn từ năm mới ngoài 20 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam.

2. Tác phẩm

Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.

II. Trả lời câu hỏi

1. Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:

- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở, cái kiệt xuất, cài tầm thường, lố lăng. Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn bài để so sánh, để cho thật hiểu cái "tinh thần của thơ mới" là không phải dễ.

- Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái "tinh thần thơ mới" khó là không phải ranh giới thơ mới - thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra.

Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những nhận diện sau:

- "Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn phải sánh bài hay với bài hay vậy."

- "... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".

2. Theo tác giả, điều cốt lõi làm nên "cái tinh thần thơ mới" là "cái tôi". Nhà phê bình giải thích:

- "Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa - hay thơ cũ và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi".

- Chữ tôi trước đây, nếu có thì cũng phải ẩn mình sau chức ta - một chữ có thể chỉ chung nhiều người.

- Chữ tôi bây giờ là chữ tôi theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo "một quan nhiệm chưa tứng thấy ở xưa này: quan niệm cá nhân". Nó " xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!".

3. Tác giả đã lý giải " chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ,  "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:

- "Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lý Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Công Trứ. Cái tôi ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng, mất lòng tin.

- Nói chung thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên.

4. Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả và tiếng Việt vì họ nghĩ: "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để tin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".

5. Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng chúng ta vẫn thấy dễ hiểu và hấp hẫn bởi: Khi đặt vấn đề tìm đặc sắc của thơ mới, tác giả nói ngay cái khó của vấn đề. Cái khó là cái mới và cái cũ lại thường gặp ở ngay trong các nhà thơ cũ và mới. Cái cũ và cái mới thường liên tiếp nhau qua các thời đại. 

- Từ cách nhìn đó, tác giả nêu cách giải quyết bài toán một cách thuyết phục là không nên so sánh từng bài một mà phải so sánh trên đại thể.

- Đặt "cái tôi" trong quan hệ với cái ta để tìm xem những chố giống nhau và khác nhau.

- Đặc biệt là khi tìm cái mới của thơ mới và của các nhà thơ mới, tác giả nhìn vấn đề tong mối quan hệ với thời đại, với tâm lý con người thanh niên đương thời để phân tích sâu sắc "cái đáng thương, đáng tội nghiệp", cái "bi kịch" ở họ.

Bài viết có một tầm nhìn bao quát về "cái tôi", "cái ta", có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách tĩnh tại, đơn giản một chiều.

Bài viết có nhiều đoạn có tính khái quát cao nhưng cách viết rất già hình ảnh, rất mềm mại, uyển chuyển vì thế mà nó có sức khêu gợi cảm xúc cũng như hứng thú ở người đọc.

19 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

A-lếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin (1799-1837) là nhà thơ vĩ đại “có ý nghĩa to lớn không chỉ trong lịch sử văn chương mà cả trong lịch sử thức tỉnh của dân tộc Nga” (N.A. Đô-brô-liu-bốp).

Pu-skin thành công trên nhiều thể loại văn chương. Không chỉ là một thi sĩ lừng danh, ông còn là tác giả của tiểu thuyết bằng thơ nổi tiếng Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin – tác phẩm mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực Nga.

Các sáng tác phong phú cả về đề tài lẫn thể loại nêu trên đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và tính cách nhân dân Nga, nhất là sự khao khát tự do và tình yêu.

2. Tác phẩm

Bài thơ “Tôi yêu em” liên quan đến mối tình giữa A.Pu-skin với A.Ô-lê-nhi-na, người mà mùa hè năm 1829, Pu-skin đã cầu hôn nhưng không được nhận lời.

Ra đời trong hoàn cảnh ấy, Tôi yêu em thấm đượm nỗi buồn của mối tình vô vọng, nhưng là nỗi buồn trong sáng của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu và vị tha.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Nó thấm đượm một nỗi buồn nhưng không hoàn toàn bi lụy, không hề có suy nghĩ gì mang tính tiêu cực. Bài thơ mở ra ngay lập tức đi thẳng vào điều cốt yếu: “Tôi yêu em”, như lời thú nhận lại như lời tự nhủ, trực tiếp, ngắn gọn và giản dị.

Trong bốn câu thơ đầu, dường như có một “cái tôi” đang tự soi vào tâm hồn mình, ở đó tình yêu vẫn chưa tắt hẳn nhưng lại có một “cái tôi” khác, nghĩ đến người (cô gái), dùng ý chí mà chế định cảm xúc: “hãy để tình yêu không làm phiền em thêm nữa”. Đó là một sự dằn lòng, một sự chế ngự, một sự vươn lên. Cách ứng xử của Pu-skin đúng là một lời từ giã tình yêu thật đặc biệt.

2. Điệp khúc Tôi yêu em là giọng điệu chủ đạo của bài thơ. Trong tiếng Nga, với hai đại từ ya và vư, người ta có thể dịch sang tiếng Việt thành một số cặp quan hệ từ nhau: tôi yêu cô, anh yêu em, tôi yêu em. Có thể nói việc người dịch chọn dịch thành tôi yêu em là khá đạt, bởi cụm từ này đã diễn đạt được một cách chính xác mối quan hệ vừa gần vừa xa, vừa rụt rè lại vừa đằm thắm.

Bốn câu thơ sau mở ra bằng điệp khúc Tôi yêu em để rồi sự chế ngự của lí trí phải nhường lại cho mạch cảm xúc dào dạt tuôn trào:

                                                Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,

                                                Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen.

Nhịp thơ nhanh hơn với những từ lúc, khi, diễn tả những trạng thái tình yêu biến đổi vô cùng, dồn dập. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng như để tô đậm thêm nét đặc biệt của mối tình đơn phương này. Hai câu thơ khơi mở ra những lớp tình cảm phức tạp mà rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, sau lớp vỏ ngôn từ bình thản, điềm tĩnh thể hiện qua cách xưng hô, qua vẻ bề ngoài lặng lẽ, rụt rè, qua ý thức cos ghìm nén tình cảm, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa lụi tắt chứ không phải là đang bùng cháy mãnh liệt.

Trong mạch thơ như vậy, hai câu kết vừa nối tiếp tự nhiên vừa mang đến ấn tượng bất ngờ:

                                    Tôi yêu em chân thành như thế đó, đằm thắm như thế đó,

                                    Cầu trời cho em (lại) được ai khác yêu thương (cũng) như thế.

Điệp khúc  Tôi yêu em lại được láy lại lần thứ ba với một lời khẳng định bản chất của mối tình này: chân thành và đằm thắm. Trong điệp nhữ Tôi yêu em, ở bản tiếng Nga, động từ yêu luôn được để ở thể chưa hoàn thành, điều ấy có nghĩa là ngọn lửa tình yêu trong trái tim nhà thơ sẽ không bao giờ tắt, không bao giờ lụi tàn, nhạt phai.

3. Hai câu thơ cuối của bài thơ quả thật rất bất ngờ và thú vị:

                                    Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

                                    Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Hai câu kết cũng mở đầu bằng điệp khúc Tôi yêu em nhưng không chỉ trở về quá khứ mà còn là sự tiếp nối liên tục hết sức đặc biệt từ quá khứ tới tương lai. Câu 7 khái quát tấm hình được diễn tả trong toàn bộ sáu câu trước đó. Câu thơ thể hiện bản lĩnh và tấm lòng tha thiết với người yêu của nhân vật trữ tình. Câu 7 chuyển ý đến câu 8 băng một so sánh  tương ứng. Nếu ở câu 6 nhân vật trữ tình bì giày vò bởi nỗi ghen tuông, thì đến đây anh đã vượt lên sự ích kỉ thường tình để có thể gửi gắm vào một người khác, một người thứ ba tất cả tình cảm nâng niu mà anh dành cho người anh yêu với ước mong nàng được hạnh phúc.

Lời cầu mong cuối bài thơ cũng còn là lời nhắn nhủ của một trái tim giàu độ lượng, chở che như nhà thơ đã viết trong một bài thơ khác:

                                    Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn

                                    Em thầm thì hãy gọi tên lên

                                    Và hãy tin: còn đây một kỉ niệm

                                    Em vẫn còn sống giữa một trái tim.

Chính thái độ trân trọng, tôn thờ, sùng kính, “sự thuần khiết” đối với phụ nữ đã đưa bài thơ của Pu-skin vươn tới những giá trị nhân văn cao cả trong kho tàng thơ tình nhân loại.

4. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Pu-skin. Thơ Pu-skin thường không trang sức rực rỡ cầu kì, vẻ ngọc của những bài thơ sáng lên chủ yếu ở xu hướng vươn tới cái cao cả trong tâm hồn và tư tưởng.

Tình yêu vốn là một chủ đề lớn trong thơ trữ tình của Pu-skin. Thơ tình của Pu-skin thường bắt nguồn từ những cảm xúc cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Tôi yêu em là vẻ đẹp tâm hồn của Pu-skin. Nó đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chuang của loài người.

19 tháng 2 2016

 

 

1. Pu-skin là đại diện xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pu-skin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với Tôi yêu em, Pu-skin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới, bài thơ đã gắn với tên tuổi Pu-skin trong lòng bạn đọc.

2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giãi bày tâm trạng theo mạch cảm xúc. Bài thơ được chia làm hai câu, mỗi câu hai vế, mỗi vế hai dòng thơ :

 Hai dòng thơ đầu : khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình “tôi” đối với em : vẫn còn yêu em.

 Hai dòng tiếp theo : tấm lòng hi sinh cao cả của nhân vật “tôi” dành cho người. Một biểu hiện cao thượng của tình yêu. Đây là phần lí trí.

 Hai dòng tiếp theo : cảm xúc và tâm trạng thật của nhân vật trữ tình. Đó là những trạng thái, cung bậc tình cảm rất chân thực của người đang yêu. Chứng tỏ tình yêu vẫn đang rất mãnh liệt và chân thành.

 Hai dòng cuối cùng : vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Dù là mối tình đơn phương nhưng tình yêu của nhân vật “tôi” là một tình yêu đẹp thể hiện một tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp của toàn bộ cảm xúc thơ toả sáng ở dòng thơ cuối cùng. Một lời tỏ tình, một cách thổ lộ tình yêu đẹp nhất và tinh tế nhất.

3.Đọc hiểu

“Mỗi chúng ta có một Pu-skin của mình, và chỉ có một Pu-skin với tất cả mà thôi. Ông đã đi vào cuộc sống chúng ta với ngay từ đầu của nó và mãi mãi không từ bỏ chúng ta” (Alếch-xan-đrơ Tra-đốp-xki). Nhận định này không chỉ khẳng định sức sống và khả năng tác động mạnh mẽ của thơ ca Pu-skin đối với đông đảo độc giả mà còn nói đến sự phong phú đa dạng trong sáng tác của ông. Ở Pu-skin, chúng ta có thể gặp một thanh niên quý tộc với tư tưởng chán chường, muốn xa lánh xã hội thượng lưu giả dối để đến với cuộc sống thanh bình, tự do chốn thôn quê. Cũng có thể gặp một chiến sĩ cách mạng với khát vọng tự do, hoặc một nhà cải cách xã hội có tư tưởng tiến bộ, và còn có cả một nhà văn hiện thực trong một nhà thơ tình lãng mạn. Quá trình sáng tác của Pu-skin là một quá trình vận động tư tưởng theo chiều tiến bộ, từ một thanh niên quý tộc có tư tưởng tiến bộ nhưng còn xa rời nhân dân đến một chiến sĩ cách mạng ưu tú luôn vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nhưng cao hơn tất cả chúng ta gặp một nhân cách Pu-skin – một Con người đích thực ở mọi phương diện sống. Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc với rất nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống vinh hoa nhưng là một Con người, nhà thơ đã không chấp nhận, đã nguyện làm một “ca sĩ của tự do”, trở thành kẻ thù của bọn cầm quyền. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho khát vọng về một xã hội tốt đẹp, tự do và bình đẳng. Sáng tác của Puskin là lí tưởng cao cả về những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống, trong đó có tình yêu – tình cảm tuyệt vời nhất của cuộc đời.

Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu).

Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ.

Trong các trường ca như Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, Đoàn người Tsư-gan, Người tù Cáp-ca-dơ, nhân vật chính của Pu-skin đều là những thanh niên quý tộc chán ghét tình yêu chốn thượng lưu đi tìm tình yêu ở nơi khác, nhưng rồi bản tính ích kỉ trong tình yêu của những thanh niên quý tộc mà họ không bỏ được vẫn đưa họ đến những bi kịch. Tình yêu với họ đã từng chỉ là những trò chơi, những cuộc chinh phục, sự ghen tuông có thể dẫn đến những cuộc đấu súng một mất một còn (E. Ô-nhê-ghin và Len-xki trong Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin), họ sẵn sàng giết chết người yêu khi cảm thấy bị phản bội (A-lê-cô trong trường ca Đoàn người Tsư-gan), có lẽ tấn bi kịch cuối đời của Pu-skin cũng xuất phát từ chính những thành kiến kiểu quý tộc ấy mà Pu-skin đã không thể tự vượt qua. Những mối tình thượng lưu kiểu ấy đã khiến nhà thơ suy ngẫm về một tình yêu đích thực. Cảm hứng về một tình yêu cao thượng đã được gửi gắm trong hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ Tôi yêu em. Dưới hình thức một lời tỏ tình là khát vọng về một tình yêu chân chính với tình cảm cao thượng. Bài thơ là sự kết hợp tuyệt vời của một lí trí sáng suốt và một trái tim biết yêu thương thực sự. Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai câu, mỗi câu bốn dòng thơ. Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc. Thơ Pu-skin vốn rất giản dị, gần gũi cuộc sống. Những hình ảnh biểu tượng trong thơ ông thường dễ hiểu nhưng rất có chiều sâu. Hiểu ở mức độ nào phụ thuộc vào sự đồng cảm và rung động của trái tim người đọc. Thế nhưng điều mà bất cứ độc giả nào cũng cảm nhận được chính là những giá trị đạo đức trong thơ Pu-skin. Những vần thơ trong sáng và đầy cảm hứng nhân văn của ông có khả năng tác động rất mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc. Và tình cảm cao đẹp của nhân vật trữ tình trong Tôi yêu em có thể tạo nên khả năng thanh lọc tâm hồn đối với nhiều thế hệ bạn đọc.

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” được bắt đầu bằng một lời thổ lộ rất chân thành :

Tôi yêu em : đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;

Có thể nhận ra một sự không bình thường trong lời bày tỏ của nhân vật trữ tình. Đó không phải là một lời tỏ tình ở một giai đoạn bắt đầu một mối tình. Có vẻ như là một sự xác nhận về một tình cảm đơn phương từ phía “tôi”. Một tình cảm như đã từng bị cố làm cho lụi tàn nhưng nó lại “chưa hẳn đã tàn phai”. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi quên. Nhưng điều đáng nói là mục đích của lời bày tỏ ấy. Mong muốn được đáp lại tình cảm hay thể hiện một điều gì khác :

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương : “Tôi chẳng muốn em buồn vì bất cứ lẽ gì”.

Quả thực tình yêu đã nâng con người lên cao hơn. Mặc dù nhân vật “em” không xuất hiện trong bài thơ nhưng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình thì đó phải là một người con gái rất đáng yêu. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.
Câu thơ đầu có sự tham gia rất mạnh mẽ của lí trí. Đây là giai đoạn mà lí trí vẫn điều khiển được trái tim. Ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng : còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm em phải suy nghĩ. Câu thơ như lời tự nhủ với chính mình với một quyết tâm rất cao. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với em chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo :

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Dường như lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Những trạng thái cảm xúc phức tạp và đầy mâu thuẫn của trái tim đang yêu đã được bày tỏ rất chân thành. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Sức nặng của tâm trạng và trung tâm thẩm mĩ của bài thơ nằm ở câu thơ thứ hai này :

Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen,

Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận. Vì không muốn em phải bận lòng thêm nữa nên phải “âm thầm”. Yêu không hi vọng, yêu đơn phương vẫn là tình yêu, thậm chí còn là một tình yêu rất sâu sắc. Có rụt rè có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và không hi vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho “em". Đó là một lời bày tỏ chân thành. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài thơ có tới ba cụm từ tôi yêu em thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với những tính từ cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm).

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

“Chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu chuẩn lí tưởng của mọi mối tình. Nếu thiếu hai “tiêu chuẩn” thì không còn là tình yêu nữa. Và mức độ chân thành, đằm thắm được xác nhận và cụ thể hoá một cách khéo léo và đầy thuyết phục ở dòng thơ cuối cùng :

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này. Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều. Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện “tôi yêu em” là tình yêu mãnh liệt và chân chính. Câu thơ hội tụ vẻ đẹp của cảm xúc và cảm hứng của nhân vật trữ tình.

Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ. Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng. Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”. Bài thơ là lời bày tỏ tình cảm, vì vậy cái ẩn ý đằng sau câu thơ, làm cho cảm xúc thơ chân thực hơn chính là ở lời cầu mong này. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, liệu có mâu thuẫn không ? Liệu có cô gái nào yên lòng trước lời cầu chúc chân thành và đáng yêu như thế. Quả thực bài thơ thật đẹp, thật trong sáng. Với một tình yêu như thế dù được đáp lại hay không thì vẫn là một tình yêu lí tưởng, những trái tim yêu như thế sẽ giúp con người ngày càng người hơn.

Thơ trữ tình Pu-skin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. Tôi yêu em là kết tinh xuất sắc nhất. Pu-skin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn :

Giữa vườn xuân và bóng đêm tĩnh mịch
Chim hoạ mi thánh thót bên nhành hồng
Nhưng đoá hồng kia chẳng chút động lòng
Mà lặng lẽ đong đưa rồi thiếp giấc
Bản tình ca vẫn du dương và réo rắt.

Tình cảm của chim hoạ mi  nhân vật trữ tình  cũng mãnh liệt và da diết, thậm chí rất kiên nhẫn mặc dù thái độ của “nhành hồng” rất lạnh lùng, lạnh lùng đến vô tâm. Có lẽ vì thế mà sự kiên nhẫn không được đáp lại ấy đã biến thành một tâm sự cay đắng, lời yêu ngọt ngào trở thành một lời chì chiết :

Vì sắc đẹp lạnh lùng người hót làm chi ?
Hỡi thi nhân hãy mau tỉnh dậy đi
Uổng công thôi người nhìn thấy đấy
Nó mơn mởn sắc hương lộng lẫy
Nhưng chẳng có gì xúc động cảm rung
Nó làm ngơ chẳng đáp lại tiếng lòng.
(Pu-skin, Con chim hoạ mi và nhành hồng)

Tất nhiên đây không đơn giản là một bài thơ thuần tuý nói chuyện tình yêu, mà còn là tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Dù sao trước hết nó vẫn là một bài thơ tình với hai hình ảnh thơ rất lộng lẫy “con chim hoạ mi” và “nhành hồng”. Hai nhân vật trữ tình ở hai bài thơ đều có chung một điều là đều yêu đơn phương nhưng lại có hai thái độ ứng xử hoàn toàn khác nhau. Một đòi hỏi được đáp lại ; một cao thượng và giàu đức hi sinh. Tôi yêu em là một định nghĩa chuẩn mực về tình yêu. Dù đơn phương hay song phương thì tình yêu cũng cần đức hi sinh và sự cao thượng. Sự ích kỉ sẽ biến lòng ghen tuông thành thứ thuốc độc giết chết mọi tình yêu. Trong trường ca Đoàn người Tsư-gan, mối tình giữa A-lê-cô và cô gái Tsư-gan là một mối tình ích kỉ. A-lê-cô từ chối và chạy trốn khỏi cuộc sống vương giả của xã hội thượng lưu, nơi mà theo chàng là :

Cảnh giam hãm phố phường ngột ngạt
Một đống người nhung nhúc giữa đường
(Puskin, Đoàn người Tsư-gan)

để đến với cuộc sống tự do giữa thảo nguyên. Nơi đó chàng đã có một mối tình đẹp và đã từng “Chỉ mơ ước được yêu em mãi mãi”. Nhưng đến khi cô gái Tsư-gan quen với cuộc sống tự do đi tìm tình yêu khác cho mình, lòng ghen tuông đã biến chàng thành thú dữ :

Con không thể : con không chịu mất
Để cho người mà không giành giật
Ít ra con hưởng khoái trả thù.

Và chàng đã nhẫn tâm giết chết hai người trẻ tuổi. Có thể thấy tình yêu của A-lê-cô điển hình cho kiểu tình yêu ích kỉ của lớp thanh niên thượng lưu. Đoàn người Tsư-gan quen sống tự do và cao thượng không thể chấp nhận anh, như lời lão trượng nói khi đuổi A-lê-cô khỏi đoàn :

Chúng ta sống man di không luật lệ
Chẳng nhục hình chẳng giết hại một ai
Chẳng đòi người có tội phải đền bồi
Chẳng đòi máu, chẳng đòi rên xiết.

Đó là phẩm chất của nhân dân. Họ yêu cuộc sống tự do và luôn cư xử rất cao thượng. Vì thế họ mới “sinh ra” thiên tài Pu-skin, họ mới có được tình cảm đẹp như Tôi yêu em. Họ chất phác và hồn hậu trong mọi mối quan hệ, vì thế những kẻ còn mang thói ích kỉ của quý tộc, tư sản không hợp với cuộc sống tự do của họ. A-lê-cô chán ghét xã hội thượng lưu nhưng chỉ biết đi tìm tự do cho riêng mình thì “Sinh ra không phải cho cuộc sống ngàn hoa nội cỏ”. Dù sáng tác ở thể tài nào, sáng tác của Pu-skin luôn thể hiện một tình cảm trong sáng và rất nhân văn. Thơ văn của ông vẫn luôn hướng đến những tình cảm đẹp đẽ và nhân đạo nhất.

Với thủ pháp nghệ thuật tạo sự tương phản giữa các vế của câu thơ, giữa hai câu thơ và ngôn ngữ thơ giản dị, giàu cảm xúc, Pu-skin đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về tình yêu. Đó là một tình yêu con người nhất. Đã có rất nhiều thi nhân viết về tình yêu và họ đều viết rất hay nhưng có lẽ Tôi yêu em là bài thơ giản dị, đời thường và chứa đựng nhiều nhất giá trị nhân văn. Với một trái tim biết yêu thương và một khả năng sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, Pu-skin xứng đáng là "niềm tự hào không phải chỉ của văn học Nga mà của toàn bộ nền văn học thế giới”. Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng Tôi yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến những nhà thơ tình xuất hiện sau ông. Một trong những luồng ánh sáng phát ra từ “mặt trời thi ca Nga” chính là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo của một trái tim luôn yêu thương tất cả bằng một tình yêu cao thượng, kết quả và kết tinh của văn hoá Nga.