K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 7 2018

Từ đồng nghĩa với từ đế xưa nay trong hán tự có thể được coi là chữ Vương, song tuy nhiên nếu đọc kĩ trong bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt này thì "Đế" lại mang một hàm ý sâu xa hơn. :
Đế ở đây tuy đồng với vương ( vua ) nhưng thật ra thì cấp bậc lại xa nhau, vương là tước của các " thiên triều " phong cho chư hầu là một nước độc lập nào đó, chỉ có " đế " mới là danh xưng của nước lớn , có chủ quyền rõ ràng. Thật vậy, từ thời hai bà Trưng khởi nghĩa đến nay thì chỉ có Triều Lý mới dám xưng Đế ( Ngay cả khi Ngô Quyền trước đây và Lê Lơị sau này tuy có tên hiệu rồi nhưng cũng chỉ xưng đến vương, sau này ông mới xưng đế ) . Một điều mới ở đây là tuy đang trong tình trạng chống ngoại xâm Phương bắc thì tác giả của bài thơ và là vị tướng tài của Vạn Xuân đã khẳng định một cách chắc chắn rằng Đế vương của nước Nam hoàn toàn có thể sánh ngang với các nước lớn chứ không chịu chỉ là vương . Rõ ràng, ta thấy chữ :" Đế " trong bài là không thể nào thay đổi được, đó chính là một hệ tư tưởng vững bền đã tồn tại hàng nghìn năm qua các các triều đại Việt Nam độc lập.

Tự làm ( ^_^)

10 tháng 7 2018

Từ đồng nghĩa : vua, quốc vương, hoàng đế, hoàng thượng,v.v

=>Không thể thay từ đồng nghĩa đó

Vì: Phía Bắc vui đc gọi là Hoàng Đế nên LTK gọi là ''nam đế'' để ngang hàng(đều là vua) với phía Bắc

21 tháng 10 2021
Cách bạn oi,giúp mịn voi ,minh dang can gấp

Câu 1 Đọc kỹ hai câu thơ sau và trả lời câu hỏi

Nam quốc sơn hà nam đế cư/

Tiệt nhiên điện Phận tại thiên thư

A) Tìm từ đồng nghĩa với từ đế

- “Vương” , vua

B) chỉ ra tác dụng của từ đế trong bài thơ

Chỉ vua, người đứng đầu đất nước, khẳng định sự ngang bằng về vị thế so với phương Bắc đồng thời khẳng định chủ quyền đất nước Nam

C) Đặt câu với một từ đồng nghĩa mà em tìm được 

Lý Thái Tổ là một vị vua anh minh

HT

6 tháng 10 2021

Tham khảo:

- Tác giả khẳng định nước Nam là của người Nam. Đó là điều đã được ghi tại “thiên thư” (sách trời).

-  Tác giả viện đến thiên thư vì ngày xưa người ta vẫn còn coi trời là đấng tối cao

- Người Trung Quốc cổ đại tự coi mình là trung tâm của vũ trụ nên vua của họ được gọi là “đế”, các nước chư hầu nhỏ hơn bị họ coi là “vương” (vua của những vùng đất nhỏ). Trong bài thơ này, tác giả đã cố ý dùng từ “Nam đế” (vua nước Nam) để hàm ý sánh ngang với “đế” của nước Trung Hoa rộng lớn.

Như vậy, tác giả nói "Nam đế cư" để hàm ý rằng nước ta có chủ quyền lãnh thổ, là một quốc gia độc lập.

Đẳng lập .banh

14 tháng 1 2021

.

8 tháng 11 2017

bài Nam Quốc Sơn HÀHai câu sau:

*nội dung ý nghĩa:
-khẳng định kẻ thù không được xâm lược, nếu còn không sẽ bị thất bại ê chề.

a.Nghệ thuật:
-Thể thơ ngắn gọn,xúc tích.
-cảm xúc dồn nén trong hình thức nghị luận trình bày ý kiến
-lựa chọn ngôn ngữ, giọng hùng hồn,đanh thép, dõng dạc.
Văn bản Sông Núi Nước Nam
Nam Quốc Sơn Hà
Lí Thường Kiệt
b. Ý nghĩa:
-Văn bản thễ hiện niềm tin về sức mạnh của chính nghĩa và được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.

8 tháng 11 2017

Bài bánh trôi nước

Ý nghĩa:

- Bài thơ thể hiện cảm hứng nhân đạo trong văn học viết Việt Nam.

- Ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất của người phụ nữ và sự đồng cảm sâu sắc đối với thân phận nổi chìm của họ.

Nghệ thuật :
- Ẩn dụ: mượn hình ảnh bánh trôi nước để nói về thân phận của những người con gái tài hoa, xinh đẹp trong xã hội xưa mà số phận lênh đênhm trôi nổi, bị phụ thuộc trong tay kẻ khác.
- Sử dụng thành ngữ"bảy nổi ba chìm" để nói về cuộc đời đầy long đong lận đận, lên thác xuống ghềnh của những kiếp hồng nhan bạc phận xưa.
- Điệp từ "vừa" trong câu "thân em vừa trắng lại vừa trong" nhằm nhấn mạnh cái tài, cái sắc của người phụ nữ xưa.

Dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên chống giặc, sẵn sàng hi sinh vì đất nước. Vì thế lịch sử nước ta thấm đẫm những cuộc chiến tranh đau thương, tàn khốc nhưng cũng đầy hào hùng, vẻ vang với những chiến thắng vinh quang in đậm dấu vết của biết bao anh hùng dân tộc trên từng trang lịch sử vàng. Một trong những vị anh hùng đó là Trần Quang Khải, một vị tướng tài ba dưới thời nhà Trần, là con trai thứ ba của vua Trần Nhân Tông, lập công lớn tại Chương Dương Độ, lừng danh muôn đời. Ông không chỉ là một vị tướng kiệt xuất mà còn là một văn nhân có những vần thơ sâu xa, lý thú. Bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” (Phò giá về kinh)) là một bài thơ do Trần Quang Khải viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ nói về cảm xúc người tướng khi theo xa giá vua trở về kinh đô khải hoàn được thể hiện qua những câu thơ như sau:

  “Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.”

(Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy ngàn thu. )

Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt hàm súc đã vẽ lên một khung cảnh hoành tráng với khí thế chiến đấu và thắng lợi vẻ vang của quân ta. Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão dem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân giặc địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy.

 

Còn Hàm Tử hay Hàm Tử quan là địa danh nổi tiếng, nơi xảy ra trận Hàm Tử trong cuộc Kháng chiến chống quân Nguyên 1285 của quân dân Đại Việt. Cửa Hàm Tử xưa thuộc xã Hàm Tử bên tả ngạn sông Hồng, gần bãi Màn Trù. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5 năm 1285, 5 vạn quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy, đã nhanh chóng giành thắng lợi. Cùng với các trận Tây Kết, Chương Dương, Vạn Kiếp, chiến thắng Hàm Tử dã góp phần tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt.

 

Nghệ thuật đảo ngữ đưa hai cụm từ “đoạt sáo”, “cầm Hồ” lên trên đầu câu đã thể hiện được khí thế dũng mãnh của quân ta, đồng thời cũng diễn tả được sự thất bại nhục nhã của quân giặc. Nhịp điệu bài thơ nhanh, gấp kết hợp với các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát tạo nên nhịp dộ dồn dập, sôi động, quyết liệt của không khí chiến trận. Nhà thơ không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ toát lên từ âm hưởng của bài thơ.

Hơn nữa, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và phép đối để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Hai chiến công oanh liệt này dã làm ‘thay đổi thế trận của quân ta: mở đầu và tiếp thêm sức mạnh, niềm tin đến quân và dân ta đập tan âm mưu xâm lược, đánh bại được kẻ thù hung bạo nhất thế giới thời bấy giờ, giành lại kinh thành Thăng Long. Ở đây có một điểm nổi bật là Trần Quang Khải là nhà thơ dầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt vào thơ ca.

 

Đất nước sạch bóng quân thù, được hưởng thái bình yên ổn là một điều rất khó nhưng để giữ gìn non nước mãi hoà bình, thịnh trị lại là điều càng khó hơn. Phải chăng vì thế mà Trần Quang Khải đã nhắn nhủ:

“Thái hình tu trí lực,

Vạn cổ thủ giang san.”

(Thải bình nên gắng sức,

Non nước ấy ngàn thu. )

Nếu muốn đất nước không bị hoạ xâm lược thì dân phải giàu, nước phải mạnh. Cho nên Trần quang Khải đã khuyên nhủ mọi người không nên ngủ trên chiến thắng mà phải bắt tay ngay vào xây dựng đất nước, củng cố lực lượng cả về kinh tế và chính trị thì mới có thể giữ vững nền độc lập, dập tắt mọi tham vọng ngông cuồng của bọn ngoại xâm. Chỉ hai câu thơ ngắn gọn mà đã thể hiện dược tấm lòng và tài trí của một danh tướng với tầm nhìn xa, hiểu biết rộng, suy xét sự việc một cách sâu sắc kết hợp với lòng yêu nước thương dân, có trách nhiệm với Tổ quốc luôn đặt Đất nước lên hàng đầu.

Bằng thể thơ ngữ ngôn tứ tuyệt, lời thơ cô đọng, ý thơ hàm súc, Trần Quang Khải đã dựng lên trước mắt người dọc bức tranh sinh động về khí thế chiến đấu hào hùng của quân dân ta, về quyết tâm hoà bình, độc lập, giữ vững chủ quyền, nhất là khẳng định nước Nam là của người dân Đại Việt, đó là định luật muôn đời không thể thay đổi.

 

Dầu đã trải qua bao thế hệ, với bao lớp bụi thời gian nhưng bài thơ vần còn mang ý nghĩa lớn lao, không chỉ vào thời xưa mà cả ở thời nay. Lớp trẻ chúng ta muốn dất nước hùng mạnh, độc lập chủ quyền thì phải mở mang kiến thức, rèn luyện phẩm chất xứng đáng với những người làm chủ tương lai của đất nước.

  

ở Việt Nam ạ ..... là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta. 

“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, chưa rõ nguồn gốc tác giả, nhưng được một số tài liệu cho là tác phẩm của Lý Thường Kiệt. Theo đó, trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã sai người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát thuộc địa phận sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt. yeu.

26 tháng 9 2016

Bài thơ ra đời đầu tiên của nước ta. Nhầm khẳng định về quyền độc lập và tự chủ tự của dân tộc Việt Nam. 

Bài thơ Nam quốc sơn hà: là tác phẩm được sử dụng trong kháng chiến chống Tống lần thứ nhất và lần thứ 2. Nhằm mục đích khẳng định chủ quyền dân tộc, khích lệ ba quân tướng sĩ và uy hiếp tinh thần giặc Tống. Ngoài ra còn thể hiện khí phách hào hùng của dân tộc. Nói lên lòng yêu nước, thương dân. Giặc đã đến thì phải đánh tan và kẻ  xâm lược sẽ phải chịu hậu quả thích đáng.

15 tháng 12 2021

Từ ''vì'' trên đoạn văn trên thuộc từ loại : quan hệ từ 

Được dùng với ý nghĩa : quan hệ nguyên nhân

13 tháng 10 2021

giúp mink với mink đang cần gấp

                              khocroi