K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 4 2017
Thời Hậu Lê là một trong những thời kì có vị trí đặc biệt trong lịch sử hình thành và phát triển của các triều đại phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam. Triều Hậu Lê là một trong những triều đại phong kiến có lịch sử tồn tại và phát triển lâu dài với 361 năm (1428-1789). Trong thời gian đó, triều Hậu Lê đã trải qua biết bao thăng trầm về chính trị, bảo vệ và mở rộng biên giới, hạn chế các xu hướng cát cứ, xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền mạnh, có vị trí và uy tín lớn trong khu vực, để lại nhiều ảnh hưởng sâu sắc cho các triều đại phong kiến sau này. Và một trong những nguyên nhân đưa tới sự thành công của triều đại phong kiến này ấy là sự vận dụng đầy sáng tạo và khoa học nguyên tắc tôn quân quyền của đạo Nho trong việc xây dựng và tổ chức bộ máy chính quyền của mình. Với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này, dưới đây là bài tiểu luận của tôi về đề tài: “ Sự vận dụng nguyên tắc tôn quân quyền trong nhà nước phong kiến thời kì Hậu Lê". NỘI DUNG. 1. Khái quát chung về nguyên tắc tôn quân quyền.

Đến thế kỷ 9 sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền thì nước ta bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ, bắt tay vào xây dựng đất nước trong khuôn khổ nhà nước phong kiến tập quyền, đạo Nho bắt đầu có ảnh hưởng lớn. Các triều đại phong kiến Việt Nam dựa vào hệ tư tưởng Nho giáo để thiết lập bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tôn quân quyền, đặc biệt là trong các giai đoạn về sau thời Lê.

Nguyên tắc “tôn quân quyền” tức là quyền lực nhà vua được đưa lên vị trí độc tôn, theo đó vua nắm tất cả các quyền hành. Tất cả mọi người phải phục tùng theo nhà vua, vua là “thiên tử”, ý vua là ý trời, vua nắm quyền cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người đứng đầu nhà nước không chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai, nắm giữ địa vị độc tôn trong các mối quan hệ. Tôn quân quyền là đưa quyền cho bậc quân vương, cũng là tôn trọng tối đa vương quyền đó, quyền lực nhà vua nắm địa vị độc tôn. Vua là người nắm trọn vương quyền: là người duy nhất có quyền đặt ra luật pháp. Các chiếu chỉ của vua có giá trị pháp lý tối cao, các bộ luật được biên soạn trên cơ sở ý chí của vua. Vua đứng đầu nhà nước, điều hành hoạt động của bộ máy hành pháp từ trung ương đến địa phương, có quyền bổ nhiệm, khen thưởng hoặc trừng phạt các quan lại. Vua cũng là quan toà tối cao, có quyền quyết định trong các vụ xét xử và là người duy nhất có quyền ân xá cho phạm nhân. Không chỉ nắm vương quyền các nhà vua còn nắm giữ thần quyền: vua ban danh hiệu quốc sư, ban sắc phong cho các thần linh. Chỉ có vua mới có quyền tế trời, thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên và thần thánh. Ngoài ra, quyền lực của vua còn chi phối đến nhiều lĩnh vực cụ thể khác ví dụ như về kinh tế vua là người sở hữu tối cao với ruộng đất công của các làng xã. Hơn nữa vua còn được hưởng nhiều đặc quyền khác. Dưới vua có bộ máy quan lại giúp việc cho vua cai quản với chức năng chính là chức năng tư vấn; chức năng phụ tá và thực thi quyền lực của vua. 2. Sự vận dụng nguyên tắc tôn quân quyền dưới thời Hậu Lê. Nhà Hậu Lê (1427-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam, tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian, trước nhà Nguyễn. Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ 10. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn: Nhà Lê sơ (1428-1527) và Nhà Lê trung hưng (1533- 1789) a. Biểu hiện của nguyên tắc tôn quân quyền dưới thời Lê sơ. Lê Lợi, vị thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Lam Sơn cũng là vị vua đầu tiên, mở đầu cho triều đại Lê sơ. Khi lên ngôi năm 1428, ngày rằm tháng 4 năm Mậu Thân, Lê Lợi chính thức lên ngôi ở điện Kính Thiên trong thành Đông Đô (tức Hà Nội ngày nay), đặt niên hiệu là Thuận Thiên, quốc hiệu là Đại Việt. Và nói đến thời Lê sơ, người ta thường nhắc đến tính chất hoàn bị của bộ máy thời kỳ này. Sở dĩ thời kỳ này có được sự phát triển mạnh về nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội và xây dựng được bộ máy hoàn bị là do thời kì này hội đủ 3 điều kiện đó là: nhà nước có một vị minh quân, một hệ thống đội ngũ quan lại có tài, có đức và quan trọng là có một hệ thống pháp luật tiến bộ, cùng với việc thực thi nghiêm minh. Trải qua bốn đời vua đầu: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Nghi Dân xã hội Đại Việt đã có nhiều chuyển biến rất tích cực. Nhưng phải đến thời của vua Lê Thánh Tông những điều kiện khách quan và chủ quan mới thật sự hội tụ đầy đủ, chín muồi. Thông qua hàng loạt biện pháp cải cách liên tục và lâu dài thành bộ máy nhà nước thời Lê sơ (triều Lê Thánh Tông) đã đạt đến tổ chức nhà nước quân chủ tập quyền mạnh. Đó là nhà nước quân chủ, quan liêu, chỉ huy quản lý và can thiệp vào mọi mặt đời sống của dân chúng từ kinh tế, chính trị đến xã hội, tư tưởng. Và có thể thấy, với những cải cách quan trọng của mình thì thật sự nguyên tắc tôn quân quyền đã được vận dụng một cách triệt để trong việc tổ chức và hoàn bị bộ máy chính quyền trung ương tập quyền tới cao độ. Mô hình nhà nước thời Lê Thánh Tông đã trở thành mẫu mực cho những đời vua sau và các triều đại sau mô phỏng theo nhằm tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay nhà vua theo nguyên tắc tôn quân quyền của nho giáo và tăng cường hiệu lực của bộ máy quan liêu, tăng cường hiệu quả quyền lực của hoàng đế. Tất cả quyền hành tối cao của bộ máy nhà nước đều tập trung vào triều đình mà đứng đầu là vua, vua là người duy nhất chủ trì các buổi tế lễ và tổng chỉ huy quân đội tham chiến như vua Lê Thánh Tông đã từng đích thân cầm quân đi đánh Chăm pa để mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Lê Thánh Tông đã thực hiện cải tổ bằng việc loại bỏ bớt một số chức quan, cơ quan ở trung ương, thành lập các cơ quan giám sát, không tập trung quyền hành vào một cơ quan tránh cho việc lạm quyền, tiếm quyền. Theo đó, vua là người đứng đầu, các quan lại, cơ quan chỉ là cơ quan giúp việc cho vua. Ông bãi bỏ các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và các bộ phận thừa hành như thượng thư sảnh, trung thư sảnh…. Lê Thánh Tông đã bãi bỏ chức tể tướng, trước đây tể tướng là người dưới một người trên muôn người, rất nhiều quyền hành, nay vua tự mình đứng ra điều khiển các quan, không thông qua tể tướng. Tương tự chức đại hành khiển đứng đầu quan văn cũng bị bãi bỏ. Ngoài ra Lê Thánh Tông còn bãi bỏ tam tư, chỉ còn lại tam thái, tam thiếu. Công thần dưới triều này không kiêm nhiệm các trọng trách lớn mà chỉ là những công thần không có thực quyền được hưởng phẩm cao, bổng hậu. Tiếp đó, Lê thánh tông lại tách Lục bộ ra khỏi thượng thư sảnh, thành lập sáu cơ quan riêng, chịu trách nhiệm trực tiếp từ vua. Đặt thêm các chức danh, cơ quan giám sát. Và để khuyến khích mở mang nông nghiệp- nền tảng phát triển của xã hội nước ta khi đó, Lê Thánh Tông cho lập ra 4 sở chuyên môn,bao gồm: sở đồn điền, sở tầm tang, sở thực thái và sở điền mục. Ở địa phương chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu, xã. Ông trực tiếp điều hành ở mức tối cao nhiều công việc của triều đình. Ở mỗi xã đặt ra các chức xã trưởng, do dân bầu nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan cấp trên. Đồng thời cho phép làng xã lập hương ước nhưng phải qua sự kiểm duyệt của cơ quan nhà nước, cấp trên. Trong quân sự, vua bỏ quyền của thái úy trực tiếp điều khiển quân đội. Thái úy hiện nay chỉ còn giữ việc tuyển quân, luyện quân; quyền lực thực tế thuộc về nhà vua.. Cùng với việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ tổng quát của các bộ, các khoa, các tự, các sở, nhà vua còn quy định rõ cơ cấu tổ chức, biên chế của từng bộ, từng khoa,.. với những chức danh, phẩm hầm và lương bổng cụ thể cho từng quan lại. Số lượng biên chế trong từng bộ, khoa, tự, sở và tổng số quan lại của cả nước đều được vua ấn định dứt khoát, không ai được tự tiện tăng hay giảm dù chỉ là một chức quan thấp nhất. Với việc thực hiện quản lý hệ thống quan lại này đã giúp nâng cao quyền lực nhà vua, xây dựng nên bộ máy hành chính có hiệu lực, hạn chế đến mức thấp nhất sự phân quyền và sự lộng hành của các công thần, đảm bảo cho sự tập trung cao độ của quyền lực nhà nước trong tay Thiên tử… Và như vậy ta có thể thấy, qua cơ cấu tổ chức, triều Lê Thánh Tông đã tạo ra hệ thống hành chính thống nhất từ trên xuống, gắn địa phương với trung ương vừa nhắm tới mục tiêu tập trung quyền lực, chỉ đạo của vua, hạn chế xu hướng li tâm, vừa phân chia chức trách, giảm thiểu sự chồng chéo của các cơ quan, địa phương. Nó nhằm hướng tới mục tiêu chung mà Lê Thánh Tông đã đặt ra ban đầu, đó là: “Đồ bản, đất đai ngày nay so với trước đã khác xa nhau, ta cần phải tự mình giữ quyền chế tác hết đạo biến thông”; “Cốt để quan to, quan nhỏ cùng ràng buộc nhau, chức trọng, chức thường kìm chế lẫn nhau, uy quyền không lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay, khiến mọi người có thói quen theo đạo giữ phép không lầm lỗi làm trái nghĩa”… b. Biểu hiện của nguyên tắc tôn quân quyền dưới thời Lê trung hưng. Sau khi Lê Thánh Tông qua đời, chỉ không đầy một thập kỷ, triều đình nhà Lê rơi vào cảnh hỗn loạn, suy thoái dẫn đến sự thay thế triều Lê sơ bằng chính quyền nhà Mạc. Để phù vua Lê, các triều Trịnh, Nguyễn lần lượt đứng lên chống triều Mạc để giành lại ngôi vị cho vua Lê. Thế nhưng cuối cùng, nhờ tài năng của Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, quân nhà Lê dần dần thắng thế. Năm 1592, quân Nam triều chiếm được Thăng Long, họ Mạc bỏ chạy lên cát cứ ở Cao Bằng, mở ra một thời kì mới cho lịch sử dân tộc với sự tồn tại của thể chế lưỡng đầu Lê- Trịnh. Trên danh nghĩa các vua Lê được coi là người duy nhất đứng đầu bộ máy nhà nước, nắm quyền bính trong tay và giữ quyền cai trị toàn bộ lánh thổ quốc gia Đại Việt. Tuy nhiên trên thực tế, quyền lực của nhà vua còn bị hạn chế và chi phối mạnh bởi quyền lực của các chúa Trịnh. Để khẳng định uy quyền và địa vị pháp lý của mình, các chúa Trịnh buộc vua Lê phải phong vương cho mình. Vua Lê phong cho Trịnh Tùng giữ chức Tổng quốc, đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều và kể từ đó các vua Lê hoàn toàn "khoanh tay rủ áo", như cách nói của các sử gia đương thời, đối với chính sự. Mọi công việc từ trị sự đến quân sự đều do chúa Trịnh đảm đương. Về lĩnh vực lập pháp, về mặt nguyên tắc, chỉ có nhà vua với tư cách là người đứng đầu nhà nước phong kiến mới được toàn quyền trong hoạt động lập pháp. Tuy nhiên trên thực tế, sự tồn tại của chúa Trịnh lấn át quyền hành của vua Lê nên chúa Trịnh cũng có quyền bạn hành pháp luật. những văn bản pháp luật mang danh nghĩa vua Lê ban hành thực chất đều do chúa Trịnh soạn sẵn và nhà vua chỉ việc kí ban hành mà ít khi vua Lê bác bỏ nội dung của chúng. Và cũng bởi lẽ đó mà sau này trong tất cả các bài chiếu lên ngôi của vua Lê đều có một kết luận: nhà vua kế thừa sự nghiệp của tổ tông, lên ngôi báu để gìn giữ tông miếu xã tắc, phát huy đức độ, thừa hưởng và bảo tồn uy phúc của tổ tiên. Còn việc trị quốc an dân, nhà vua hoàn toàn nhờ cậy Trịnh Vương. Xét về tính chất văn bản pháp luật thời kì này, ta thấy giữa chúng không có sự xung đột hay chồng chéo, sự phân định thẩm quyền đã tương đối rõ ràng, sự qui định như vậy cũng cho thấy rất rõ tính chất đế quyền của nhà vua, và tính chất thực quyền của chúa, hay nói cách khác nhà Lê trị vì còn Chúa Nguyễn thì cai trị. Về lĩnh vực hành pháp, mặc dù lấy danh nghĩa của vua Lê để ra sắc chiếu hay chỉ dụ tuyên bổ, thưởng phạt.. song từ khi họ Trịnh lên nắm quyền, mọi việc chính trị, quan dân, quan chế đều do bên phủ chúa Trịnh định đoạt hết. Hầu như mọi việc liên quan tới tài chính, thuế khóa của quốc gia đều do cháu Trịnh nắm giữ như: thu chi ngân sách, lương bổn, các loại thuế… Trong quân sự, vua Lê phong cho chúa Trịnh giữ chức Đại nguyên soái và lãnh đạo toàn bộ lực lượng quân binh trong cả nước. Ngoài ra, trong lĩnh vực ngoại giao, vua Lê với tư cách là nguyên thủ quốc gia nên có quyền tiếp sứ giả hoặc cử sứ giả ra nước ngoài thiết lập quan hệ ngoai giao với các nước liên bang, song những quyền này cũng chỉ mang tính tượng trưng còn thực tế chúa Trịnh mới là người toàn quyền quyết định và vua Lê là người công bố những chính sách ngoại giao đó. Còn về tư pháp, quyền tài phán cuối cùng thuộc về chúa Trịnh, còn các vua Lê chỉ có chức năng ban hành các đạo, chiếu liên quan đến lĩnh vực tư pháp, ban bố lệnh ân xá và đại xá mà thôi. Về hình thức triều đình thì vua Lê vẫn giữ theo mô hình thời Lê sơ và cơ cấu tổ chức cũng như quyền hạn của các cơ quan vẫn như trước đây. Song càng vầ sau chức năng các cơ quan này càng bị hạn chế bởi sự ra đời của các cơ quan bên phủ chúa Trịnh như: Ngũ phủ Phủ Liêu, Lục phiên- cơ quan này không chỉ nắm trọn quyền thống lĩnh quân đội mà còn lấn dần và tước đoạt quyền hạn của lục bộ. Về chính quyền địa phương cơ bản vẫn được tổ chức theo mô hình thời Hồng Đức với 13 xứ thừa tuyên. Như vậy có thể thấy, dưới thời Lê- Trịnh với chế độ lưỡng đầu chế, thì nguyên tắc tôn quân quyền đã được áp dụng một cách mềm dẻo và linh hoạt hơn để phù hợp với yêu cầu thực tiễn mà lịch sử đã đặt ra. Trên danh nghĩa, vua Lê là nguyên thủ quốc gia nhưng chỉ là “hữu danh vô thực”, tất cả quyền bính thực chất thuộc về các chủa Trịnh và phủ chúa. Chúa mới là nơi xuất phát của các mệnh lệnh, chủ trương chính sách của nhà nước. Chúa Trịnh không dám lật đổ vua Lê và vua Lê chấp nhận sự lấn át của chúa Trịnh nen cả 2 cùng dực vào nhau để tồn tại và duy trì tập quán chính trị “lưỡng đầu chế” này. Chính quyền Lê- trịnh thể hiện quyền lực của 2 dòng họ, giữa vua và chúa, giữa đế và vương. Cả 2 cùng vừa kết hợp, vừa thể hiện sự đối trọng nhau nhưng cùng tham gia quản lý và điều hành đất nước với sự song song tồn tại của 2 hệ thống cơ quan nhà nước với cơ cấu và tổ chứ khác nhau nhưng đều dựa trên sự vận dụng nguyên tắc tôn quân quyền của Nho giáo. c. Đánh giá về sự vận dụng nguyên tắc tôn quân quyền dưới thời Hậu Lê. Với sự vận dụng đầy linh hoạt và sáng tạo nguyên tắc tôn quân quyền trong việc tổ chức bộ máy nhà nước thời Hậu Lê đã đưa đến những thành tựu nhất định của triều đại này trong tiến trình lịch sử dân tộc. Trong thể chế quân chủ tuyệt đối Lê sơ, vai trò của nhà vua được đặt lên rất cao với chủ nghĩa “tôn quân” và theo đó, hoàng đế là người nắm trọn trong tay cả vương quyền, thần quyền và các đặc quyền kinh tế, chính trị khác và có thể nói, với cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông đã đưa đến sự phát triển cao độ của mô hình nhà nước quan liêu chuyên chế. Còn đối với thời Lê trung hưng, với sự vận dụng một cách mềm dẻo nguyên tắc này của Nho giáo đã đưa tới sự ra đời của một chính thể độc đáo trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đó là thể chế lưỡng đầu Lê – Trịnh với sự song song tồn tại của 2 nguyên thủ quốc gia vừa cân bằng vừa đối trọng với nhau trong quá trình trị vì đất nước của mình. Tuy nhiên, với việc áp dụng nguyên tắc này đã khiến cho nhà vua giữ vai trò độc tôn trong bộ máy nhà nước, dễ đưa lại sự chuyên chế độc đoán và chuyên quyền, lạm quyền vô độ; và hơn hết, là đưa vua và dân ngày càng cách xa nhau hơn… KẾT LUẬN. Trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của mình, nhà nước phong kiến Hậu Lê đã ghi tạc những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc với những biến động đầy thăng trầm của mình. Với gần 4 thế kỉ tồn tại của mình, tổ chức bộ máy nhà nước Hậu Lê đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới những triều đại phong kiến ở Việt Nam sau này, và đặc biệt là với cuộc cải cách thành công của vua Lê Thánh Tông vào thế kỉ XV…..
2 tháng 11 2021

B

2 tháng 11 2021

B.Liên kết về tiền tệ-tài chính.

3 tháng 1 2020

Bộ máy của tổ chức Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính, trong đó Hội đồng bảo an là cơ quan giữ vai trò trọng yếu để duy tri hòa bình và an ninh thế giói, Ban thư kí là cơ quan hành chính, đứng đầu là Tổng thư kí với nhiệm kì 5 năm. Trụ sở Liên hợp quốc đặt tại Niu Oóc (Mĩ).

Chọn đáp án: C

17 tháng 11 2019

Đáp án A

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau: “Sau Hội nghị Ianta không lâu, từ ngày 25 - 4 đến ngày 26 - 6 - 1954, một hội nghị quốc tế họp tại Xan Phranxico (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước, để thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24 - 10 - 1945, sau khi được Quốc hội các nước thành viên phê chuẩn, bản...
Đọc tiếp

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau: 

“Sau Hội nghị Ianta không lâu, từ ngày 25 - 4 đến ngày 26 - 6 - 1954, một hội nghị quốc tế họp tại Xan Phranxico (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước, để thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24 - 10 - 1945, sau khi được Quốc hội các nước thành viên phê chuẩn, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực. 

Là văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc, Hiến chương nêu rõ mục đích của tổ chức này là duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các nước dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. 

Để thực hiện các mục đích đó, Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau: Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc; Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước; Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào; Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình; Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc). 

Hiến chương quy định bộ máy tổ chức của Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính là Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng kinh tế và Xã hội, Hội đồng Quản thác, Tòa án Quốc tế và Ban Thư kí. 

Đại hội đồng: gồm đại diện các nước thành viên, có quyền bình đẳng. Mỗi năm, Đại hội đồng họp một kì để thảo luận các vấn đề hoặc công việc thuộc phạm vi Hiến chương quy định. 

Hội đồng Bảo an: cơ quan giữ vai trò trọng yếu trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Mọi quyết định của Hội đồng Bản an phải được sự nhất trí của năm nước Ủy viên thường trực là Liên Xô (nay là Liên bang Nga), Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc mới được thông qua và có giá trị. 

Ban Thư kí: cơ quan hành chính - tổ chức của Liên hợp quốc, đứng đầu là Tổng thư kí với nhiệm kì 5 năm. 

Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có nhiều tổ chức chuyên môn khác giúp việc. Trụ sở của Liên hợp quốc đặt tại Niu Oóc (Mĩ). 

Trong hơn nửa thế kỉ qua, Liên hợp quốc đã trở thành một diễn đàn quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Liên hợp quốc đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột ở nhiều khu vực, thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế, giúp đỡ các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo,…”

Hiến chương của Liên hợp quốc được thông qua hội nghị nào:

A. Hội nghị Ianta.

B. Hội nghị Xan Phranxico.

C. Hội nghị Pốtxđam.

D. Hội nghị Pari.

1
22 tháng 8 2017

Đáp án B

Sau Hội nghị Ianta không lâu, từ ngày 25 - 4 đến ngày 26 - 6 - 1954, một hội nghị quốc tế họp tại Xan Phranxico (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước, để thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24 - 10 - 1945, sau khi được Quốc hội các nước thành viên phê chuẩn, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực

11 tháng 11 2019

Đáo án D

2 tháng 11 2017

Đáp án: C

18 tháng 8 2017

ĐÁP ÁN D

8 tháng 11 2017

Đáp án B
Đây là mục tiêu được đề ra trong Cuộc tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968. Tuy có ý nghĩa quan trọng nhưng mục tiêu này đề ra chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Xuân Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy sự cố gắng của địch và những khó khăn lúc đó của ta.