Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đền Ngọc Sơn:
Đền được xây dựng trên đảo Ngọc, trong hồ Hoàn Kiếm cùng với Tháp Bút, Đài Nghiên, cầu Thê Húc (cầu đậu nắng ban mai), lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng), đình Trấn Ba (đình chắn sóng) và đền chính hợp thành cụm di tích lịch sử kiến trúc - nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh tiêu biểu của thủ đô.
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến thời Trần đổi thành Ngọc Sơn. Truyền thuyết kể rằng, ở gò trong hồ đá, có các tiên nữ thường về đây múa hát. Thời vua Lê, Chúa Trịnh xây cung Khánh Thụy ở Ngọc Sơn làm nơi vui chơi. Cuối thời Lê, xây chùa Ngọc Sơn thờ Phật. Đến thời Nguyễn, chuyển thành đền thờ Văn Xương - Đế Quân, rồi lại phối thờ Lã Động Tân, Quan Đế (tức Quan Vân Trường), phật A Di Đà và đặc biệt là tướng quân Trần Hưng Đạo. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu bổ lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá chung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
Trên núi Độc Tôn cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút.
Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút. Phía nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có tám cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ.
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những hoài niệm về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào chính đáng, lòng yêu nước, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long.
Nơi đây là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, hiện được đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: Hồ Văn, vườn Giám và Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám.Điểm nổi bật tại di tích này chính là Khuê văn các (nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê"), được xây dựng vào năm 1805. Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội.
Hiện nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.
Bài Bình Ngô Đại Cáo_Bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc Nguyễn Trãi đã bổ sung nâng quan điểm khá hoàn chỉnh về tổ quốc.Trong đoạn trích"Nước Đại Việt Ta" quan niệm về tổ quốc và độc lập chủ quyền dân tộc được ông trình bày theo các yếu tố sau: Có nền văn hiến riêng,phong tục tập quán riêng,lãnh thổ cương vực riêng, truyền thống lịch sử riêng,chế độ chính quyền của các hoàng đế riêng.Ông khẳng định chân lý tồn tại độc lập chủ quyền dân tộc bằng cách viện dẫn những chứng cứ xác thực trong lịch sử:Đó là những chiến công oai hùng vẻ vang của ông cha ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc và những thất bại cay đắng nhục nhã của quân xâm lược.Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm toàn diện sâu sắc dựa trên thực tiễn cụ thể về tổ quốc và độc lập chủ quyền dân tộc.
Dòng cảm xuc của nhân vật "tôi" là dòng cảm xúc theo trinh tự không gian và thời gian. Đây là dòng cảm xúc vừa bỡ ngỡ vừa sợ sệt trong lần đầu tiên đi học:
- Nhân vật "tôi" cảm thấy mọi vật quanh mình thay đổi một cách lạ lùng, dù là con đường đã quen đi lại lắm lần. Và bỗng nhận ra rằng, chính mình đang có một sự thay đổi lớn lao: "hôm nay tôi đi học".
-Nhân vật"Tôi" đã có quyết tâm học tập ngay từ ngày đầu đi học, ko để thua kém bạn bè khi bảo với mẹ đưa cho mình cầm thước, bút.
-Rồi cảm thấy ngôi trường bỗng nhiên to lớn, đẹp đẽ, đâm ra lo sợ vẩn vơ...
-Qua 2 h/a so sánh thấy rằng nhân vật tôi khát khao, và mong muốn như những ng học trò cũ để khỏi sợ sệt.
-Cảm thấy lo sợ khi phải rời xa bàn tay yêu thương của mẹ, và cuối cùng, cậu đã bật khóc nức nở. Chi tiết ấy ko phải nói rằng nv ''tôi'' nhút nhát, nhưng là lần đầu tiên rời xa cái thế giới quen thuộc mà mình vẫn thường ngày đối diện, bc vào hoàn toàn 1 thế giới khác.
-Khi đã vào lớp, nv "tôi" lại thấy mọi vật hay hay. Và thích thú nhìn ra xung quanh. Rồi tự nhiên ko còn cảm thấy xa lạ hay sợ hãi mà là cảm giác gần giũ thân quen ngay với cả nh~ ng bạn chưa lần nào gặp mặt.
P/S : Nhân vật tôi chính là Thanh Tịnh
- thuyết minh về 1 danh lam thắng cảnh.
- thuyết minh về 1 phương pháp cách làm.
- Thuyết minh về 1 thể loại văn học.
- Thuyết minh về 1 thể loại văn học.
Hết rồi nhé bạn! Chúc học tốt!
tức nước vỡ bờ ko chia thành đoạn đc đâu bn ạ .............còn vì sao thì mik ..........chịu
Hạnh phúc đơn giản là một cảm xúc của con người.Nó xuất hiện khi mỗi chúng ta nhận được điều ta hằng mong đợi,giống như gương mặt trên câu hỏi của bạn,đó là hạnh phúc.Có nhiều kiểu hạnh phúc:mong chờ,tình yêu...Mỗi con người chúng ta đều đơn giản hạnh phúc khi biết tình yêu của mọi người với mình...
I. Bối cảnh lịch sử xã hội – văn hóa:
1. Các mốc lịch sử xã hội quan trọng:
• 1858, Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam ở cửa biển Đà Nẵng, xã hội Việt Nam từ phong kiến thực dân nửa phong kiến.
• 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.
• 1945, cách mạng tháng tám thành công, với Tuyên ngôn độc lập, Việt Nam đã lật đổ ách thống trị giành độc lập.
2. Hoàn cảnh lịch sử xã hội:
2.1. Hình thái kinh tế xã hội mới phát triển:
• Kinh tế phong kiến tự cung tự cấp theo đơn vị làng xã, làng xã là một đơn vị về kinh tế, hành chính.
• Kinh tế tư bản lấy lợi nhuận làm đầu, tất cả mọi thứ đều biến thành hàng hóa.
2.2 Giai cấp mới, tầng lớp mới xuất hiện
• Tư sản: một bộ phận gồm nhà buôn, doanh nghiệp, địa chủ làm môi giới cho tư bản nước ngoài.
• Tiểu tư sản: dân nghèo thành thị, sinh viên – học sinh ở các trường Tây, công chức ở các sở
• Công nhân: làm việc ở các nhà máy, đồn điền.
2.3 Các ý thức hệ mới (tư sản, vô sản) gắn với chuyển biến mới về tư tưởng và văn hóa văn học.
2.4 Các phong trào yêu nước gắn với tư tưởng duy tân và cải cách xã hội (Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục,…)
2.5 Tư tưởng của Chủ nghĩa Marx – Lenin và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
3. Những thay đổi về văn hóa tác động đến đời sống văn học:
3.1 Sự suy tàn của Nho giáo và vị thế của nhà Nho:
• Chữ Hán và chữ Nôm mất dần địa vị độc tôn.
• Bãi bỏ Hán học, khoa thi cuối cùng năm 1919
• Nhà Nho cũng đi ra thành phố trở thành tiểu tư sản, ông nghè đi buôn, quan bốc thuốc, cậu ấm có thể viết kịch,…
• Nhà Nho vốn rất được coi trọng ở nông thôn. (Ông đồ - Vũ Đình Liên)
3.2 Sự thâm nhập của văn học phương Tây, trí thức Tây học:
• Mở trường tiếng Pháp, bên cạnh quốc ngữ.
• Truyền bá văn hóa Pháp, văn học Pháp.
• Xuất hiện trí thức Tây học, tác giả Tây học (Tố Tâm – Hoàng Ngọc Phách)
• Độc giả kiểu mới: Người ta cần giải trí, hiểu biết những gì đang xảy ra trong cuộc sống hang ngày, nên thích đọc báo, truyện ngắn, tiểu thuyết.
• Nếp sống – tư tưởng kiểu mới: nảy sinh mâu thuẫn giữa cái “cũ” với cái “mới”.
• Văn học Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nghệ thuật văn học Trung Quốc, đã bước ra quỹ đạo khu vực để hội nhập với nền văn học thế giới.
3.3 Vấn đề quốc ngữ và văn học viết bằng chữ quốc ngữ:
• Dễ đọc, dễ viết, dễ thuộc. Có sự thống nhất giữa chữ viết và âm tiếng Việt. Ngôn ngữ viết dựa trên cơ sở ngôn ngữ nói, ngôn ngữ đời sống.
• Lúc đầu, trí thức Tây học không tin dùng chữ quốc ngữ.
• Các nhà văn vẫn tin dung tiếng mẹ đẻ.
3.4 Vai trò của báo chí:
• Dấu hiệu một xã hội hiện đại.
• Vai trò lớn trong phát triển văn xuôi và đưa Văn học đi vào con đường hiện đại hóa.
• Kho lưu giữ lịch sử. (tạp chí Đông Dương)
3.5 In ấn, dịch thuật, nhà xuất bản mang cho văn học bộ mặt mới
• In ấn tạo cầu nối cho công chúng và lực lượng sáng tác.
• Dịch thuật cung cấp nguồn thông tin cần thiết cho người sáng tác.
• Dịch thuật khiến cho người sáng tác làm quen với những các mới, trau dồi kiến thức và tạo độ nhuần nhuyễn trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt
II. Đặc điểm văn học Việt Nam 1900 – 1945:
1. Hiện đại hóa toàn diện và sâu sắc:
1.1 Thoát ra khỏi phạm trù trung đại:
(quan niệm thẩm mĩ về xã hội và con người, cộng đồng văn học và hệ thống thi pháp trung đại)
Phạm trù trung đại
Quan hệ thẩm mĩ xã hội – con người: luân thường
• Ngũ luân: 5 mối quan hệ
• Ngũ thường: nhân – lễ - nghĩa – trí – tín.
• Tam cương: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ.
Nhân sinh quan:
• Thuyết chính danh
• Thuyết tiểu nhân – quân tử.
• Thuyết nam tôn – nữ tu
Cộng đồng văn học: người sáng tác và công chúng.
(Cộng đồng hẹp: “tao nhân mặc khách”)
Thi pháp văn học:
• Tính ước lệ: đó là những giao ước về cách hiểu nghệ thuật giữa thành viên trong cộng đồng.
• Tính uyên bác và cách điệu hóa:
Uyên bác vì văn chương của trí thức
Cách điệu hóa
• Tính sùng cổ: gốc của quan niệm này là sự cảm thụ thời gian xoay tròn, quay về nguồn xưa – khác với cách cảm thụ thời gian tuyến tính.
• Tính chất phi ngã (impersonnel) hay phi cá nhân cá thể
Thời phong kiến, phẩm chất cá nhân không được coi trọng mà đẳng cấp mới là cái quan trọng.
Không chú trọng khám phá thế giới nội tâm. Truyện được chú ý cốt truyện và tình tiết.
Quan niệm về thiên nhiên – vũ trụ:
“Thiên nhiên nhất thể”
Thiên nhiên không phải là khách thể thẩm mĩ mà là chủ thể thẩm mĩ.
Hệ thống thể loại:
Văn cao cấp nhất là văn học thuật.
Văn chương nói về tình cảm cá nhân, những quan hệ đời thường chỉ là thứ văn chương tiêu khiển lúc trà dư tửu hậu.
Tiểu thuyết.
1.2 Các dấu hiệu chứng tỏ văn học giai đoạn này hiện đại hóa toàn diện:
Quan điểm thẩm mĩ:
• Xóa bỏ quan niệm xã hội luân thường.
• Dẫn đến sự thay đổi các bậc thang có giá trị về nhiều mặt.
• Xuất hiện mẫu hình con người bổn phận, nghĩa vụ quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc, đây là nhân cách xã hội duy nhất phù hợp với điều kiện lịch sử ngặt nghèo. Cần anh hung hào kiệt không cần nho sĩ.
• Hình mẫu Hồ Chí Minh , nhà thơ – chiến sĩ.
Hệ thống chủ đề: từ bỏ những chuyện trung hiếu tiết nghĩa đi vào cuộc sống, những vấn đề của cuộc sống, của con người nói riêng, cái tôi xuất hiện(1) và đưa ra những đòi hỏi, vấn đề riêng của nó.
Hệ thống hình tượng: không phải những trung thần, liệt nữ, thanh nhi – trúc mã mà là những con người cụ thể của từng khuynh hướng.
Thể loại : những bài chải chuốt, thanh cao, tinh xảo nhưng chạm khắc, như vườn cây cảnh đã bị sóng gió tình cảm của thơ mới làm lung lay tận gốc.
Truyện ngắn: đi đầu trong cách tân và hiện đại hóa thể loại.
• Cũ: nói chí, nói về những anh hùng hào kiệt. Kết có hậu.
• Mới: nói về những sự việc trong cuộc sống hằng này. Không có thứ tự thời gian nà theo quy luật tâm lý. Cái tôi tác giả xuất hiện và lần đầu tiên trần thuật bằng ngôi thứ nhất.
Tiểu thuyết:
• Đề tài chuyện đời tư, thế sự
• Nhân vật là trung tâm miêu tả, đủ mọi tầng lớp, nhân vật điển hình độc đáo.
• Tâm lý nhân vật là đối tượng để khai thác.
• Thời gian nghệ thuật đa tuyến, đa chiều.
• Không gian vĩ mô đa tuyến, đa chiều.
• Kết cấu mở, hoành tráng. Kết thúc bở ngỡ
• Trần thuật linh hoạt.
Phóng sự: “đứa con đầu lòng của nghề viết báo” (Vũ Ngọc Phan). Có ý nghĩa thời sự cập nhật cụ thể, chính xác, năng động, rất gần với đời sống.
Văn xuôi nghị luận: lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học.
Kịch nói.
Ngôn ngữ văn học:
• Chữ quốc ngữ: ngôn ngữ của đại chúng. Gần với cuộc sống, diễn tả nhiều trạng thái tinh tế, phức tạp.
• Vốn Hán – Việt ít đi, thuần Việt tăng.
• Tiếng Việt đa âm
2. Phát triển với nhịp độ đặc biệt khẩn trương và mau lẹ: (2)
2.1 Nguyên nhân:
• Sức sống tinh thần mạnh mẽ và sâu sắc của dân tộc, tiềm lực văn học của dân tộc.
• Những trí thức Tây học tâm huyết với tiếng mẹ đẻ và văn học dân tộc.
• Sự thức tỉnh ý thức cá nhân của những người làm nên nền văn học này. Họ đi vào văn chương với khát vọng khẳng định mình.
• Lòng yêu nước - truyền thống, tiếng Việt - tiếng mẹ đè, là vũ khí chiến đấu
• 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
• Do bản chất xã hội và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.
• Văn chương trở thành 1 thứ hàng hóa và nghề kiếm sống
2.2 Biểu hiện:
+Đầu thế kỷ XX đến 1920: tạo điều kiện vật chất: quốc ngữ được phố biến, baó chí phát triển nhưng chủ yếu ở Nam Bộ, dòng chủ lưu chính vẫn là chí sĩ cách mạng.
+ 1920 - 1930: đạt nhiều thành tựu vang dội
* Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách,...
* Truyện ngắn Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,...
* Thơ Tản Đà, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,... -> phong trào thơ mới xuất hiện.
* Kịch: Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc,...
Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc ( Vi hành, lời than vãn của bà Trưng Trắc,....) tạo nền cho văn học giai đọan thế kỉ 20 - văn học - chiến sĩ.
+ 1930 - 1945 : văn học hiện đại hóa mọi mặt, đạt được nhiều đỉnh cao
• Tiểu thuyết: Vũ Trọng Phụng với Giông tố, Số Đỏ, Nhất Linh,…
• Thơ: Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lưu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Thông,…
• Truyện ngắn: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Ngô Tất Tố,…
3. Sự phân hóa thành nhiều xu hướng văn học:(2)
- Ý thức tự giác về trách nhiệm cầm bút, quan điểm văn học và khuynh hướng thẩm mĩ của mình phê bình văn học ra đời với nhiều tên tuổi Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hải Triều, Thiếu Sơn,...
- Xét ở mặt chính trị chia thành 2 bộ phận văn học:
+ Văn học phát triển hợp pháp (công khai): có tính dân tộc và cách mạng nhưng thái độ hok trực tiếp với việc lật đổ chế độ thực dân.
* Xu hướng lãng mạn chủ nghĩa thể hiện trực tiếp và sâu sắc cái tôi trữ tình văn học tràn đầy cảm xúc, đồng thời phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả những khát vọng, ước mơ thơ, văn trữ tình.
* Xu hướng hiện thực chủ nghĩa chú trọng diễn tả, phân tích, lí giải một cách chân thực, chính xác quá trình khách quan của hiện thực xã hội thông qua hình tượng điển hình tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự
+ Văn học phát trỉên bất hợp pháp và nửa hợp pháp (không công khai): nhà văn - chiến sĩ vũ khí chiến đấu, tuyên truyền vận động cách mạng, lí tưởng cộng sản
tạo nền cho văn học việt nam 1945 – 1975
Giải thích:
(1)Trong giai đoạn văn học phong kiến, cái tôi không xuất hiện. Nếu có cũng mập mờ, không rõ. Chỉ có duy nhất nữ sĩ Hồ Xuân Hương (Ngày của Xuân Hương đã quệt rồi)
(2) Phần này xin tìm hiểu chi tiết trong các bài: Khuynh hướng văn học lãng mạn, khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, văn học bất hợp pháp.
Tham khảo:
Có một lần, tôi đã làm một việc khiến ba mẹ rất vui lòng. Cảm giác làm được việc tốt nên trong lòng thấy vui lắm, vì lúc ấy tôi mới học lớp bốn thôi.
Hôm đó, một ngày chủ nhật, ánh nắng mặt trời trải khắp không gian chiếu lên những giọt sương còn đọng trên lá cỏ làm nó lung linh như những viên pha lê. Một ngày được nghỉ ngơi thư giãn sau một tuần học tập và làm việc vất vả của mọi người. "Một ngày rảnh rỗi mà không đi chơi thì thật là lãng phí thời gian", chỉ nghĩ thôi tôi thấy lâng lâng trong người. Tôi vừa đi ra phòng khách vừa hát "Một ngày mới nắng lên, ta đưa tay chào đón...là...la...lá...lá...la.." thì thấy ba mẹ lăng xăng làm chuyện gì đó, tôi tò mò hỏi "Ba mẹ đang làm gì vậy ạ?" "À! Ba mẹ chuẩn bị đi thăm bạn cũ, đã lâu rồi không còn gặp con à" ba tôi đáp. Mẹ nói với thêm vào "Hôm nay con trông nhà và giúp ba mẹ làm việc nhà nhé! Chiều ba mẹ về có quà cho con". Nghe mẹ nói xong tôi cảm thấy cụt hứng, những dự định được đi chơi tan biến, chưa làm việc gì mà cảm thấy mệt mỏi. Trước giờ tôi có động tay, động chân vào mấy việc này đâu, có thời gian rảnh là đi chơi với đám bạn nên mệt mỏi là phải rồi.
Ba mẹ tôi vừa ra khỏi nhà thì lũ bạn tôi chạy ùa vào "Linh ơi! Đi thôi!", một đứa trong bọn la lên, tôi ngạc nhiên hỏi "Đi đâu?" "Mày không nhớ hôm nay là ngày gì à?" Ngân hỏi lại, nó nhìn cái mặt ngơ ngác của tôi và nói tiếp "Hôm nay là ngày sinh nhật Minh Thư lớp mình đấy" Tôi chợt nhớ ra và nói "Chút xíu nữa là quên mất, cảm ơn các bạn nha". Tôi mời các bạn vào nhà và nói "Chờ tao một chút, đi thay quần áo". Bước vào trong nhìn thấy nhà còn bề bộn, dơ bẩn tôi chợt nhớ lời mẹ dặn lúc nãy tôi nghĩ bụng "Chết rồi nhà cửa như thế này làm sao mà đi được, với lại buổi tiệc cũng sắp bắt đầu rồi". Tôi đắn đo cân nhắc có nên đi hay không, nếu đi thì tất cả việc nhà mẹ giao mình không làm chắc mẹ buồn lắm và mẹ phải bắt tay vào dọn dẹp thì càng vất vả. Còn nếu tôi không đi sinh nhật thì Minh Thư sẽ giận và không chơi với tôi nữa, sinh nhật nó bốn năm mới tổ chức một lần vì nó sinh vào ngày 29/2. Tôi phải làm sao đây...? Một đứa ham chơi như tôi đây mà bỏ lỡ một cuộc vui như vầy thì thật là đáng tiếc. Suy nghĩ một hồi lâu, tôi quyết định ở nhà dọn dẹp nhà cửa. Chạy ra cửa nói với đám bạn là tôi không đi được và gửi lời xin lỗi đến Minh Thư. Có thể nó giận và không chơi với tôi thì cũng một thời gian ngắn thôi, thế nào rồi cũng quay lại, tính Thư trước giờ là như vậy.
Tôi bắt tay vào công việc. Bắt đầu là phòng ngủ, sắp xếp lại mền, gối cho ngay ngắn, quét dọn phòng sạch sẽ, kéo rèm lên cho nắng sớm vào phòng. Tiếp đến phòng khách phải quét bụi trên tủ, bàn, rửa bộ ấm chén uống trà của ba và lau sạch nền gạch. Bước xuống bếp thấy chén đủa ăn sáng còn ngổn ngang trên bàn, một thau đồ mẹ giặt chưa phơi, trên bếp còn bề bộn xoong nồi, tôi hít một hơi dài và bắt tay vào việc. Trước giờ tôi chưa làm việc này nhưng vừa làm vừa nhớ lại lời mẹ dạy, miệng ngân nga câu hát mà công việc đã xong lúc nào không hay. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy mồ hôi của mình chảy như suối vậy, cảm giác mệt mỏi xen lẫn niềm vui. Thành quả lao động của một cô bé luôn lười biếng, ỉ lại ba mẹ, nhiều lúc ba mẹ nói lắm mới giúp, bây giờ làm việc một cách tự giác và hoàn thành rất tốt công việc được giao, trong lòng thấy vui sướng làm sao! Hạnh phúc biết bao! Thật sung sướng khi mình đã chiến thắng bản thân để vượt lên chính mình.
Khỏi phải nói, chiều đó ba mẹ về, vừa bước vào nhà đã vui cười ba khen "Con gái của ba rất ngoan, biết nghe lời ba mẹ, cảm ơn con rất nhiều". Tôi bẽn lẽn "Dạ con đã lớn rồi phải không mẹ". Mẹ nói "Con mẹ đã lớn rồi, quà của con đây này" vừa nói mẹ vừa lấy trong túi ra một con gấu bông xinh xinh tặng cho tôi "Cảm ơn ba mẹ, con thích lắm". Mẹ làm cơm chiều thật ngon để đãi tôi vì thành quả lao động của một ngày "làm việc".
Sau ngày hôm đó tôi suy nghĩ nhiều về bản thân "Mình có thể làm được nhiều việc hơn thế nữa, tuổi nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình". Hoàn thành một việc tốt làm cho ba mẹ vừa lòng và mình cũng cảm thấy hạnh phúc nhân lên gấp bội. Về sau tôi làm được nhiều việc hơn, cố gắng giúp đỡ ba mẹ bớt cực nhọc sau những ngày làm việc vất vả. Hôm nay tôi chia sẻ cho các bạn một mốc son trong đời và là một kỉ niệm đẹp làm tôi nhớ mãi.
Vì không có time nên tham khảo nhé bạn
Cha mẹ là những người đà sinh thành, đưa ta đến với thế giới này. Cha mẹ đã nuôi dưỡng ta khôn lớn, cho ta ăn học nên người. Chính vì thế, cha mẹ là người có công ơn thật lớn lao, vĩ đại đổi với ta. Phận làm con phải biết hiếu thảo và quan tâm đến cha mẹ của mình. Quan trọng hơn là phải thường xuyên làm cho cha mẹ vui lòng. Tôi cũng thế, tôi đã làm được một việc tốt khiến mẹ tôi vui lòng và tự hào về tôi.
Vào thứ năm tuần trước, tôi và các bạn đi chơi ở công viên nước. Tại đây tôi đã cùng với các bạn cua mình làm một việc tốt. Tuy đó chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ nhưng với tôi thì chuyện đó mang nhiều ý nghĩa lắm. Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó. Do thứ năm tuần trước, trường tôi cúp điện nên cả trường được nghỉ.Chỉ riêng nhóm tôi, cả đám tổ chức đi chơi ở công viên nước. Sáng hôm ấy. từ chín giờ sáng chúng tôi đã khởi hành trong tâm trạng vui vẻ. Vừa thay đồ bơi xong thì tôi và các bạn đã chạy ào xuống hồ bơi. Cảm giác nóng nực,oi bức đã bị những dòng nước mát trong hồ xua đi. Không khí lúc này thật náo nhiệt, âm thanh của nước chảy xuống hồ hay các con thác nhân tạo làm cho chúng tôi thêm phấn khởi. Nhìn xung quanh là những chiếc cầu tuột đủ màu sắc, những chiếc phao đủ hình dạng ngộ nghĩnh đang đưa chúng tôi bồng bềnh trên mặt nước. Các làn sóng nhàn tạo cứ từ từ đập vào bờ làm cho mọi người lênh đênh trong dòng nước mát. Tất cả mọi người và mọi cành vật đang hòa mình theo lời gọi mời của các bờ hồ. Lúc này, những ánh nắng chói chang của buổi trưa hè đã bị xoa dịu đi. Trong lúc mọi người ai ai cũng chơi đùa thật vui vẻ thì bỗng từ xa có một cô bé chỉ chừng khoảng bay tuổi ngồi khóc. Thấy vậy chúng tôi liền chạy đến bên em và hỏi thăm. Cô bé có một gương mặt trái xoan và đôi mắt to tròn cùng làn da trắng hồng đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh ngay lần đầu tiên gặp em. Cô bé cứ oà lên khóc khiến chúng tôi lúng túng, không ai biết phải đồ em ấy như thế nào. Ngay lúc đó, Hoa đã đến ngồi cạnh em. Hoa cười tươi nhìn em, vừa vồ nhẹ vai, Hoa vừa an ủi cô bé. Một lúc sau, có bé đã ngừng han tiếng khóc và kể cho chúng tôi nghe về chuyện em bị lạc mẹ. Vừa nghe cô bé kể xong, chúng tôi đâ lập tức dẫn em đi một vòng lớn hồ bơi để tìm mẹ của cô bé. Nhưng do người quá đông nên tôi và các bạn không thế tìm thấy bác ấy lúc này, cô bé có vẻ rất thất vọng, trong đôi mắt của em hiện rõ sự lo lắng và sợ hãi. Nhìn vào đôi mắt ấy mà tôi thấy thương em quá! Trong đầu tôi đang suy ra mọi cách để có thế giúp em giảm bớt đi nỗi sợ ấy. Tôi liền đề ra một ý với các bạn là cho em ấy chơi chung cùng chúng tôi. Các bạn ai cũng đồng ý. Cuộc hành trình của chúng tôi và cô bé bắt đầu ở những chiếc cầu tuột cao ngoằn ngoèo bảy màu kia. Trước khi trượt, cô bé có vẻ hơi sợ nên tôi đã ôm em vào lòng để cùng trượt với tôi. Nước cứ theo tốc độ trượt của chúng tôi mà bắn tung toé Sau nhiều lần trượt cùng tôi và các bạn dường như em đã đỡ buồn và lo hơn một chút rồi. Thời gian chơi cùng những chiếc cầu tuột cũng đã trôi qua. Chúng tôi lại tiếp tục ngồi trên phao để thả mình theo con sông lười. Những cảm giác táo bạo trong dòng nước của câu tuột ban nãy chẳng còn đâu nữa mà bây giờ chúng tôi đang thả mình một cách êm đềm. Sau đó, chúng tôi lại chuyển sang các trái bóng đầy màu sắc và nhiều trò chơi dưới nước. Một tiếng đồng hồ cùng đã trôi qua, bây giờ em đã cười lại rồi. Đôi mắt em cũng không còn ẩn chứa nồi sợ hãi như lúc ấy nữa. Đã đến lúc quay lại việc tìm mẹ cô bé. Thật may mắn là chúng tôi đã tìm được bác. Cô bé lúc này đang vỡ oà trong hạnh phúc vì được gặp lại người mẹ thân yêu. Sau khi chào tạm biệt cô bé, chúng tôi cùng kết thúc buổi vui chơi. Vừa về đến nhà, tôi đã kể cho mẹ biết ngay việc đó. Mẹ cười tươi và khen tôi rất nhiều. Nụ cười của mẹ hiện rõ sự hài lòng và tự hào về tôi.
Sự việc hôm ấy là một niềm tự hào lớn lao của tôi. Hôm đó, tôi đã có một khoảng thời gian chơi đùa thật vui và ý nghĩa bên cô bé. Tôi đã khiến mẹ cảm thấy tự hào vê tôi. Đó là điều tôi luôn muốn làm cho mẹ. Tôi sẽ cố gắng làm nhiều việc tôt hơn nữa để mang đến cho mẹ thật nhiều niềm vui.
Trong cuộc đời của mỗi người, hẳn ai cũng từng biết qua một vài quyển sách, càng bổ ích hơn khi được đọc hoặc nghiên cứu về chúng. Hôm nay, tui xin giới thiệu với các bạn quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một mà tôi đang được học ở trường. Đây là một quyển sách chứa đựng thật nhiều kiến thức vế các phần như: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Tôi sẽ trình bày đôi nét vế quyển sách này để các bạn biết rõ hơn vế nó.
Quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành dưới sự cho phép của Bộ Giáo dục và đào tạo, được tái bản lần thứ năm. Để có được một quyển sách với nội dung hoàn chỉnh phải trải qua nhiều công đoạn rất công phu. Nào là phải chọn lọc rồi biên soạn lại, trình bày bìa và minh họa, chọn size chữ, chọn bản in,…Nhân đây, tui xin nhắc đến một số người đã góp công trong việc phát hành quyển sách này. Bản quyền thuộc Nhà xuất bản Giáo dục và đào tạo. Vế phần nội dung do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), Nguyễn Hoành Khung (Chủ biên phần Văn), Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt), Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn), Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân,... Chịu trách nhiệm xuất bản do chủ tịch HĐQT kiêm tổng Tổng Giám đốc Ngô Trần Ái và phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nguyển Quý Thao. Biên tập lần đầu Kim Chung, Ngọc Khanh, Hiền Trang. Biên tập tái bản Phạm Kim Chung. Trình bày bìa và minh họa là Trần Tiểu Lâm. Nguyễn Thanh Thúy chịu trách nhiệm biên tập kĩ thuật. Sửa bản in do Phòng sửa bản in (NXB Giáo dục). Chế bản do Công ty cổ phần thiết kế và phát hành sách giáo dục. Sách có mã số 2H811T9 và số đăng ký KHXB: 01-2009/CXB/219 – 1718/GD, được in 70 000 cuốn tại Công ty TNHH MTV XSKT & Dịch vụ In Đà Nẵng. In xong nộp lưu chiểu tháng 02 năm 2009.
Cầm quyển sách trên tay, ta sẽ dễ dàng đọc được dòng chữ “Ngữ Văn 8 – Tập một” in thật to ở bìa sách. Bìa thuộc dạng bìa cứng , có bề mặt nhẵn, được trang trí với màu cam thật đẹp mắt, trên cùng, ở gốc trái có in dòng chữ màu đen: “Bộ Giáo dục và đào tạo” khoảng 2-3 milimet. Bên dưới dòng chữ ấy là tên sách:”Ngữ Văn” được tô màu xanh dương làm nổi bật trên nền bìa cam có phông chữ khoảng 28 – 30 milimet cùng với số “8” màu trắng có size từ 30 – 35 milimet được in thật to bên dưới, phía bên phải và bên trái số “8” ấy có đế hang chữ “Tập một”. Thân bìa được trang trí thêm hoa, lá vàng, xanh để tăng thêm phần sinh động. Phía dưới cùng là hang chữ “Nhà xuất bản Giáo dục” với bản hiệu logo màu đỏ. Bìa sách cuối có nền màu trắng, hai bên trái, phải ở trên cùng lần lượt in hình “Huân chương Hồ Chí Minh và Vương miệng kim cương chất lượng quốc tế. Bên dưới là tên các loại sách thuộc các môn học khác nằm trong chương trình lớp 8 được in với màu đen đặc sắc trên một khung nền màu xanh như: Ngữ Văn 8 (tập một, tập hai), Lịch sử 8, Địa lí 8, Giáo dục công dân 8, Âm nhạc và Mĩ thuật 8, Toán 8 (tập một, tập hai),..., Tiếng nước ngoài (Tiếng Anh 8, Tiếng Nga 8...)Dưới cùng, nằm bên gốc phải là tem đảm bảo và giá là 7 200 đồng. Kế bên là các mã vạch màu đen dung để phân biệt. Sách gồm 176 trang không tính bìa, được in theo khổ giấy là 17 x 24 cm. Bên trong sách được in với loại giấy thường gồm phần nội dung của chương trình học và một số hình ảnh minh họa mang tính logic.
Chúng ta đã được rèn luyện, củng cố nâng cao một số kĩ năng trong quá trình tạo lập văn bản như: xây dựng bố cục, xây dựng đoạn văn, lien kết đoạn văn. Chương trình Tập làm văn 8 sẽ được nâng cấp trên một vài phương diện. Sự kết hợp phương thức biểu đạt tự sự, nghị luận mà chúng ta đã được học qua với phương thức biểu đạt khác như miêu tả, biểu cảm sẽ tạo nhiều điều kiện để ta đọc – hiểu văn bản làm cơ sở để đi vào nghiên cứu phương thức biểu đạt thuyết minh. Đây là kiểu văn bản lần đầu được dạy trong nhà trường ở Việt Nam, tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng lại hết sức thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống.
Chúng ta cũng đã được biết qua các tác phẩm văn học hết sức nổi tiếng được thể hiện dưới hình thức truyện hoặc thơ của các nhà văn lỗi lạc trong và ngoài nước. Điển hình là một số tác phẩm văn học nổi tiếng như: Tôi đi học của Thanh Tịnh, Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) của Nguyên Hồng, Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn) của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của Nam Cao, Cô bé bán diêm (trích) của An-đéc-xen, Đánh nhau với cối xay gió (trích Đôn Ki-hô-tê) của Xét-van-tét, Chiếc lá cuối cùng (trích) của O Hen-ri, Hai cây phong (trích Người thầy đầu tiên) của Ai-ma-tốp, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (trích Ngục Trung Thư) của Phan Bội Châu, Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh,…Tôi xin giới thiệu đôi nét vế một tác phẩm văn học Việt Nam mà tôi cho là hay nhất trong suốt quá trình học đó là tác phẩm “Tức nước vỡ bờ” trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Với ngòi bút hiện thực, sinh động của ông, đoạn trích đã tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời, đã đẩy họ vào con đường cùng với tình cảnh quá cơ cực khiến họ phải liều mạng chống lại. Và chị Dậu là một hình ảnh tiêu biểu. Truyện còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Bên cạnh các tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng còn có những tác phẩm văn học nước ngoài với lời văn hết sức tinh tế và độc đáo. Tiêu biểu như đoạn trích “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen. Truyện kể về một hoàn cảnh vô cùng bất hạnh của một em bé bán diêm. Ngay từ nhỏ em đã phải sống trong sự thiếu vắng tình thương của mẹ cùng với sự lạnh lung, ghẻ độc của cha. Năm mộng tưởng cao đẹp đã cùng em và bà về nơi Thượng Đế. Qua lời văn của tác giả, ta thấy truyện còn tố cáo xă hội đã bất nhân, lạnh lung, đối xử tàn tệ với trẻ em của xã hội tư bản và lòng thương cảm sâu sắc của tác giả đối với một em bé bất hạnh mà An-đéc-xen muốn truyền đạt cho chúng ta.
Nhưng chưa hết đâu, ở phần Tiếng Việt chúng ta sẽ được mở mang thêm nhiều kiến thức với nhưng bài học vô cùng bổ ích như: Cấp độ khái quát của từ ngữ, Trường từ vựng, Từ tượng hình – Từ tượng thanh, Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, Trợ từ - Thán từ, Tình thái từ, Chương trình địa phương (Phần Tiếng Việt), Nói quá, Nói giảm – Noi tránh, Câu ghép, Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm, Dấu ngoặc kép, Ôn luyện về dấu câu,…Ở bài Cấp độ khái quát của nghĩa từ ngữ giúp ta hiểu rõ hơn vế ý nghĩa, đặc tính của các từ, rèn luyện cho ta cách chọn lọc và sử dụng từ ngữ thật chuẩn xác. Tiếp đến là bài Trường từ vựng, ý nghĩa công dụng của nó gần giống như bai trên nhưng nó chứa đựng một hàm ý sâu xa hơn và đòi hỏi kĩ năng sử dụng các tính chất của trường từ vựng cao hơn. Khi đã thực vững vàng thì ta sẽ được học tiếp bài Từ tượng hình – Từ tượng thanh, giúp ta phân biệt rõ rang từ nào là chỉ âm thanh, từ nào là chỉ hình ảnh, trao dồi cho ta nhiều vốn liếng vế từ ngữ hay rối từ đó có thể thành lập được những câu văn hay để đưa vào bài viết. Càng thú vị hơn khi ta được học bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, nó giúp ta biết thêm về một số ngôn từ ở nhiều địa phương khác nhau trên đất nước và vài biệt ngữ nghe vô cùng lạ tai thường được sử dụng trong một số tấng lớp xã hội nhất định.Hãy nhớ nhé, tôi xin khẽ nhỏ với các bạn một kinh nghiệm của tui từ khi tiếp xúc và làm quen với quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một này là: “Những kiến thức đã học ở phần Tiếng Việt sẽ là chiếc cầu nối đưa ta cập bến và đi tới sự thành công ở phần Tập làm văn.” Vì ở phần Tiếng Việt nó sẽ giúp ta nắm vựng ngữ pháp vế dấu câu, cách chọn lọc, sử dụng từ ngữ từ đó có thể “đúc kết” ra những bài văn hay, sinh động, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Đừng nên bao giờ nghĩ rằng chỉ cần học phần Tiếng Việt còn Tập làm văn thi không. Tôi xin mách rằng: ai mà có tư tưởng ấy thì hãy xóa bỏ thật nhanh nó đi nếu như không muốn mất đi tư chất của một học sinh học Văn. Vì ở phần Tập làm văn chúng ta sẽ được học một số bài cũng không kém phần quan trọng như: Tính thống nhất về chủ đề của văn bản, Bố cục của văn bản, Xây dựng đoạn văn trong văn bản, Liên kết các đoạn văn trong văn bản, Luyện tập tóm tắt văn tự sự, Miêu tả và biểu cảm trong văn tự sự, Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, Luyện nói: kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm, Tìm hiểu chung về văn thuyết minh, Phương pháp thuyết minh, Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh, Chương trình địa phương(phần Văn), Luyện nói: thuyết minh về một thứ đồ dùng,…Tôi xin sơ lược về một số bài và công dụng của nó. Ở các bài: Bố cục của văn bản, Xây dựng đoạn văn trong văn bản, Liên kết các đoạn văn trong văn bản nhằm giúp ta hiểu thật rành rẽ hơn về kết cấu, cấu tạo của đoạn văn, bài văn và cách sử dụng phương tiện lien kết để có sự mạch lạc, rõ rang giữa các đoạn văn. Còn trong ba bài: Tìm hiểu về văn thuyết minh, Phương pháp thuyết minh, Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh được sắp xếp trong chương trình giảng dạy theo độ khó tăng dần, nhằm thúc đẩy ta làm quen và thích nghi nhanh với phương thức biểu đạt mới, luyện tập cho ta có thể mạnh dạng và chủ động hơn trong mọi đề văn thuyết minh dưới hình thức nói hoặc viết.
Như vậy, qua đó ta cũng đã thấy được vô ngàn kiến thức bổ ích cấn phải tìm hiểu sâu hơn trong quyên sách Ngữ Văn 8 – tập một này. Nó giúp ta tiếp cận vói những tác phẩm văn học nổi tiếng được truyền qua nhiều thế hệ từ đó mới thấy được chân giá trị của nghệ thuật, đối với người học văn, nó còn làm cho tâm hồn ta bay bổng, thanh thản, nhẹ nhàng hơn để giảm bớt đi những áp lực nặng nề của cuộc sống. Hơn nữa, sách còn mang ý nghĩa giáo dục to lớn, toi luyện cho ta nhiều kiến thức trong việc giao tiếp hàng ngày dù là thể hiện dưới mọi hình thức. “Có đam mê đọc sách mới thấy được những giá trị tiềm tàng của sách”
Tôi luôn mong rằng sách sẽ đồng hành với mình thật lâu dài nên tôi đã tự đạt cho mình một châm ngôn:”Một trang sách hay, muôn ngàn kien thức”.Nếu mất đi một trang sách thi tôi sẽ mất đi biết bao nhiêu là tri thức nên bản thân tôi tự nhủ phải làm mọi cách để cho sách có thể nguyên vẹn trong suốt thời gian ở bên tôi. Đừng nên nghĩ đến việc sang lớp 9 là sẽ vứt cuốn sách Ngữ Văn 8 –Tập một này đi nhé! Như thế sẽ không tốt chút nào, dù nó là vật vô tri nhưng cũng đã gắn bó với mình suốt một năm học qua, với lại kiến thức cũ ở lớp 8 sẽ còn gặp lại ở lớp 9, nếu có những khuất mắt thì chúng ta có thể lật lại từng trang sách xưa để ôn luyện. Vì vậy, dù không còn học quyển sách Ngữ Văn 8 – tập một thì vẫn nên để nó gọn gang, vuông vắn vào kệ sách, khi cần thiết có thể xem lại bất cứ lúc nào.
với tôi, sách là người bạn thân thiết, mãi đồng hành cùng tôi trên ghế nhà trường. Và tôi luôn nâng niu, trân trọng từng trang sách, từng bài học, từng lời văn,…vì tôi biết sách luôn kề vai sát cánh bên tôi, bồng bế tôi qua nhưng nẽo đường khúc khuỷa để tiến về đỉnh vinh quang của học vấn.
“Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ” Thật vậy, câu nói này đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ và nó vẫn còn mang ý nghĩa tồn tại trong mọi thời đại. Ngọn đèn tri thức chính là sách và ngọn đèn ấy chẳng bao giờ bị dập tắt cho dù nó có đứng trước những thay đổi thất thường của thời tiết.
Ôi ! Quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một chứa đựng biết bao nhiêu là kho tàng tri thức vô giá của nhân loại. Sách như ngọn đèn sáng soi bước đường tôi đi và sách cũng như chiếc chìa khóa vạn năng mở toan các cánh cửa trên con đường học vấn tôi đang lê bước và một sự đóng góp lớn lao trong việc “Trăm năm trồng người”. Đó chính là công sức to lớn của những thầy, cô giáo luôn tận tụy, hết mình vì học sinh, luôn tìm tòi nhưng cách giảng thật hay, thật dễ hiểu để học sinh chúng tôi có thể tiếp thu dễ dàng những kiến thức bổ ích mà thấy, cô đang truyền đạt. Như vậy, sách cũng như những người thầy, người cô láy đò đưa chúng tôi sang sông cặp bến của tương lai tươi sáng.
Trên chặng đường học tập, ngữ văn là môn học không thể thiếu đối với chúng ta. Nó giúp ta phát triển khả năng đọc viết, giao tiếp một cách toàn diện. Và một phần không thể thiếu khi học ngữ văn chính là SGK. Nội dung chương trình trong sách giáo khoa các lớp như một mắt xích, mỗi năm gắn kết chặt chẽ với nhau, và SGK lớp 8 tập một là phần rất quan trọng trong quá trình học ngữ văn.
SGK ngữ văn 8 tập 1 do nhà xuất bản giáo dục phát hành dưới sự cho phép của bộ giáo dục và đào tạo. Cầm cuốn sách trên tay, ta có thể thấy nổi bật dòng chữ ngữ văn 8 tập 1 trên nền màu hồng. Phía góc trên của cuốn sách là dòng chữ màu đen: Bộ giáo dục và đào tạo. Giữa cuốn sách còn có hình vẽ những bông hoa màu vàng, làm cho cuốn sách thêm phần bắt mắt. Nhìn vào bìa sau của cuốn sách, ta có thể thấy ngay lô gô của sách và huân chương Hồ Chí Minh, thể hiện chất lượng và uy tín của sách.
Chúng ta cùng tìm hiểu vào trong cuốn sách. Cũng giống như các loại sách khác, SGK lớp 8 tập 1 cũng có một phần mục lục giúp cho học sinh có thể dễ dàng tìm các bài học mà mình cần. Sách được chia thành 17 bài học, mỗi bài tương ứng với 4 tiết văn trên lớp. Mỗi bài luôn bao gồm đủ nội dung: Văn bản, tập làm văn, tiếng việt. Nội dung các bài học trong cuốn sách được sắp xếp một cách rất khoa học và hợp lí. Phần đầu của mỗi bài học luôn là khung: nội dung cần đạt, tóm lược lại toàn bộ kiến thức quan trọng mà học sinh cần phải nhớ. Tiếp sau đó là văn bản. Thể loại của văn bản lớp 8 tập 1 là văn bản tự sự và văn bản nhật dụng. Văn bản tự sự học sinh đã được học ở các lớp dưới, nay nó sẽ được nâng cao và đòi hỏi học sinh phải có sự suy nghĩ và tìm tòi. . Riêng về văn bản nhật dụng sẽ không được học nhiều, nhưng học sinh cần nắm vững loại văn bản này vì nó sẽ cung cấp các kiến thức hữu ích, là hành trang giúp cho học sinh tiếp cận với cuộc sống một cách dễ dàng hơn.
Sau khi học văn bản, chúng ta sẽ tìm hiểu đến phần tiếng việt. Phần TV của SGK lớp 8 tập 1 tiếp tục học về các biện pháp tu từ như từ tượng hình, từ tượng thanh,… giúp ích cho việc viết tập làm văn. Ngoài ra, học sinh sẽ được tìm hiểu thêm về các từ loại, câu ghép, dấu câu.. Điều đặc biệt của phần tiếng việt, đó là các ví dụ trong bài tập đều được lấy từ các văn bản đã được học qua, giúp cho học sinh sẽ nhớ được các bài học đồng thời hiểu sâu sắc hơn về các nghệ thuật mà tác giả sử dụng. Phần tập làm văn của SGK lớp 8 tập 1 tiếp tục học về văn bản tự sự. Nhưng mức độ của loại văn bản này sẽ cao hơn, đòi hỏi học sinh phải hóa thân thành một nhân vật trong các văn bản đã học để kể lại câu chuyện. Cách làm này sẽ một lần nữa làm cho học sinh nắm vững bài học và phát huy khả năng viết và trí tưởng tượng. Ngoài ra, phần tập làm văn cũng đề cập đến văn bản thuyết minh, giúp mở mang lượng kiến thức của học sinh trên nhiều phương diện.
SGK lớp 8 tập 1 giúp học sinh phát triển các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống. Đầu tiên là khả năng đọc hiểu. Học sinh có thể hiểu được nội dung văn bản, từ đó nắm được mục đích và ý nghĩa mà tác giả muốn phản ánh. Thứ 2 là khả năng viết. Cuối cùng, đó là khả năng giao tiếp. Hằng ngày chúng ta nói chuyện với rất nhiều người, nhưng nói sao cho lưu loát, nói sao cho văn minh lịch sự thì là một điều cần phải rèn luyện nhiều. Ngoài việc phát triển các khả năng cần thiết cho cuộc sống, SGK lớp 8 tập 1 còn cho ta cảm nhận về cuộc sống tươi đẹp, giúp ta thêm tình yêu với con người, thiên nhiên, xã hội; xây dựng trong chúng ta lòng kiên trì và nghị lực và vượt qua thử thách trên đường đời.
SGK lớp 8 tập 1 đem lại cho chúng ta không ít lợi ích, chính vì vậy, ta cần thể hiện thái độ trận trọng đối với nó. Chúng ta cần bọc quyển sách gọn gàng sạch sẽ, không vẽ bậy lên trang sách. Ngoài việc giữ gìn cho sách cẩn thận, thì học tốt môn ngữ văn cũng là một cách để thể hiện lòng biết ơn đối với người làm sách. Chúng ta cần học bài đầy đủ, nhớ những kiến thức trọng tâm cần thiết, chú ý gạch chân phần quan trọng để học tốt hơn…
Cuốn sách SGK lớp 8 tập 1 là tài sản của tri thức nhân loại, thấm đượm mồ hôi công sống của biết bao vị giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo cho nhưng học sinh học tập nên người. Cuốn sách như một ngọn đèn hải đăng soi sáng những cánh cửa dẫn đến tương lai của bao thế hệ học trò.