Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chùa Nghĩa Xá (Chùa Viên Quang) là một di tích có quy mô rộng lớn, bề thế. Nội công ngoại quốc, trên khu đất rộng khoảng 500m2. Chùa đã được di chuyển và sửa chữa nhiều lần nhưng dấu ấn thời kiến trúc thời Hậu Lê còn in khá đậm nét trong phong cách xây dựng và phong cách trạm khắc như 2 bộ cánh cửa nhà Tiền Bái; hàng chục chân tảng đá hoa sen khu mộ tháp bằng đá... ở đây còn tấm bia thời Lý khắc năm 1122 là một trong những tấm bia quý hiếm ở địa phương. Ngoài ra ở chùa còn ba cỗ kiệu Bát cống, nhiều nhang án và sấu gỗ trạm khắc thời Hậu Lê có giá trị về mặt nghệ thuật. Chùa Nghĩa Xá còn có một thắng cảnh nhiều người biết đến.
Theo tấm bia cổ nhất hiện còn lại tại di tích khắc năm Thiên Trù Duệ Vũ thứ ba (1122) thì khu chùa này lúc có ở Giao Thuỷ Vạn. Các cụ cao tuổi ở địa phương cho biết địa danh đó nằm ở phía trên phà Tân Đệ (thành phố Nam Định) khoảng 15 km. Theo văn bia khắc năm thứ 2 đời vua Đồng Khánh (1888) thì tương truyền kỳ còn ở Giao Thuỷ Vạn, quy mô chùa rất lớn với 36 toà, hàng trăm gian. Cũng theo bia này, về sau do sự đổi dòng của Sông Hồng, chùa có nguy cơ bị quấn đi nên chuyển chùa về xứ Bát Dương (nay thuộc khu vực xã Vũ Phong, Vũ Hợp huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình) cũng ở ven Sông Hồng.
Sau đó chùa lại bị dòng sông làm sụp nở, do vậy tháng 3 năm thứ 19, đời vua Tự Đức (1867) lại chuyển chùa về khu đất hiện nay. Tháng 5 năm thứ 20, đời vua Tự Đức thì dựng xong như quy cách cũ. Tháng 8 cùng năm thì bị bão lớn làm bay ngói đổ tường, ngôi chùa phải tu sửa đến tháng 12 cùng năm thì hoàn thành.
Chùa hiện nay thờ Phật và các vị Thánh Tổ. Nguyên trước chùa thờ cả Thiền Sư Tuệ Tĩnh. Theo các cụ ở địa phương, trước năm 1949 chùa rất nhiều tượng phật, sau bị giặc Pháp huỷ hoại. Hiện nay, gian tiền bái thờ tượng Phổ Hiền và Quan Công gian đọ nhị có toà Cửu Long gian Thượng Điện thờ bốn pho tượng Quan Âm, một pho tượng A Di Đà ngồi tư thế toạ thiền. Phía trên cùng của thượng điện thờ 3 tượng tam thế. Nếu nhìn từ ngoài vào thượng điện thì gian bên cạnh (phía phải). Có bài vị thờ vua Lý Thần Tông, gian tiếp cạnh có bài vị thờ Lục Thượng Thái Sư. Cạnh tượng điện về phía trái có bài vị thờ Giác Hải thiền sư và một gian giáp cạnh có bài vị thờ Nguyễn Minh Không. Phía sau toà thượng điện này có 4 gian (lợi dụng mái thượng điện) có 4 pho tượng tương ứng những người được thờ bài vị ở phía ngoài.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, ở di tích đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ. Năm 1946, thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, chùa Nghĩa Xá là nơi dân quân nằm nghỉ, tập luyện hàng năm trời. Cũng trong thời gian này nhà sư Nguyễn Thanh Tác trụ trì tại chùa đã cởi áo Cà Sa tham gia vệ quốc đoàn để chống lại thực dân Pháp.
Thời kỳ năm 1947 – 1948, chùa Nghĩa Xá là nơi tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Nam Định liên tục đi về để tổ chức cuộc mít tinh quần chúng. Có những cuộc mít tinh lớn như cuộc mít tinh lực lượng 3 huyện miền nam tỉnh: Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu. Nhân kỷ niệm ngày quốc tế lao động mùng 1/5/1950 lá cờ Đảng đã tung bay trên gác chuông chùa mặc dù lúc này nơi đây vẫn còn vùng địch tạm chiếm.
Chùa Nghĩa Xá (Viên Quang) là một trong những di tích có giá trị của tỉnh Nam Định. ở đây còn văn bia đời Lý là một trong những bia quý hiếm về nghệ thuật, kiến trúc nhìn tổng thể chùa Nghĩa Xá có quy mô rộng lớn, kiến trúc thời Hậu Lê còn lưu giữ được khá nhiều. Với một vùng đất sa bồi thuộc tỉnh Nam Định, có được kiến trúc như ở đây là điều rất đáng quý.Trong di tích còn lưu giữ tới ba cỗ kiệu Bát, ba nhang án và ba bài vị thời Hậu Lê, khu mộ tháp bằng đá, mô hình tháp đất lung, bốn pho tượng Thánh Tổ cùng với tượng Quan Công, Phổ Hiền bằng đồng…
Hàng năm vào ngày 1/3 âm lịch chính quyền địa phương và nhân dân xã Xuân Ninh lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống nhằm tôn vinh ý nghĩa lịch sử văn hoá của khu di tích, đồng thời qua đó cũng khơi gợi ý thức tự hào của nhân dân địa phương và lòng hảo tâm của khách địa phương trong và ngoài xã để sửa sang và tôn tạo cho khu di tích ngày một khang trang hơn, sạch đẹp hơn.
1. Tên di tích: Chùa Nghĩa Xá (Viên Quang)
2. Loại công trình: Chùa
3. Loại di tích: Di tích kiến trúc nghệ thuật
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 1371-QĐ ngày 03 tháng 8 năm 1991
5. Địa chỉ di tích: Thôn Nghĩa Xá- Xã Xuân Ninh- Huyện Xuân Trường-Tỉnh Nam Định
6. Tóm lược thông tin về di tích
Chùa Nghĩa Xá (Chùa Viên Quang) là một di tích có quy mô rộng lớn, bề thế. Nội công ngoại quốc, trên khu đất rộng khoảng 500m2. Chùa đã được di chuyển và sửa chữa nhiều lần nhưng dấu ấn thời kiến trúc thời Hậu Lê còn in khá đậm nét trong phong cách xây dựng và phong cách trạm khắc như 2 bộ cánh cửa nhà Tiền Bái; hàng chục chân tảng đá hoa sen khu mộ tháp bằng đá... ở đây còn tấm bia thời Lý khắc năm 1122 là một trong những tấm bia quý hiếm ở địa phương. Ngoài ra ở chùa còn ba cỗ kiệu Bát cống, nhiều nhang án và sấu gỗ trạm khắc thời Hậu Lê có giá trị về mặt nghệ thuật. Chùa Nghĩa Xá còn có một thắng cảnh nhiều người biết đến.
Theo tấm bia cổ nhất hiện còn lại tại di tích khắc năm Thiên Trù Duệ Vũ thứ ba (1122) thì khu chùa này lúc có ở Giao Thuỷ Vạn. Các cụ cao tuổi ở địa phương cho biết địa danh đó nằm ở phía trên phà Tân Đệ (thành phố Nam Định) khoảng 15 km. Theo văn bia khắc năm thứ 2 đời vua Đồng Khánh (1888) thì tương truyền kỳ còn ở Giao Thuỷ Vạn, quy mô chùa rất lớn với 36 toà, hàng trăm gian. Cũng theo bia này, về sau do sự đổi dòng của Sông Hồng, chùa có nguy cơ bị quấn đi nên chuyển chùa về xứ Bát Dương (nay thuộc khu vực xã Vũ Phong, Vũ Hợp huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình) cũng ở ven Sông Hồng.
Sau đó chùa lại bị dòng sông làm sụp nở, do vậy tháng 3 năm thứ 19, đời vua Tự Đức (1867) lại chuyển chùa về khu đất hiện nay. Tháng 5 năm thứ 20, đời vua Tự Đức thì dựng xong như quy cách cũ. Tháng 8 cùng năm thì bị bão lớn làm bay ngói đổ tường, ngôi chùa phải tu sửa đến tháng 12 cùng năm thì hoàn thành.
Chùa hiện nay thờ Phật và các vị Thánh Tổ. Nguyên trước chùa thờ cả Thiền Sư Tuệ Tĩnh. Theo các cụ ở địa phương, trước năm 1949 chùa rất nhiều tượng phật, sau bị giặc Pháp huỷ hoại. Hiện nay, gian tiền bái thờ tượng Phổ Hiền và Quan Công gian đọ nhị có toà Cửu Long gian Thượng Điện thờ bốn pho tượng Quan Âm, một pho tượng A Di Đà ngồi tư thế toạ thiền. Phía trên cùng của thượng điện thờ 3 tượng tam thế. Nếu nhìn từ ngoài vào thượng điện thì gian bên cạnh (phía phải). Có bài vị thờ vua Lý Thần Tông, gian tiếp cạnh có bài vị thờ Lục Thượng Thái Sư. Cạnh tượng điện về phía trái có bài vị thờ Giác Hải thiền sư và một gian giáp cạnh có bài vị thờ Nguyễn Minh Không. Phía sau toà thượng điện này có 4 gian (lợi dụng mái thượng điện) có 4 pho tượng tương ứng những người được thờ bài vị ở phía ngoài.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, ở di tích đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ. Năm 1946, thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, chùa Nghĩa Xá là nơi dân quân nằm nghỉ, tập luyện hàng năm trời. Cũng trong thời gian này nhà sư Nguyễn Thanh Tác trụ trì tại chùa đã cởi áo Cà Sa tham gia vệ quốc đoàn để chống lại thực dân Pháp.
Thời kỳ năm 1947 – 1948, chùa Nghĩa Xá là nơi tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Nam Định liên tục đi về để tổ chức cuộc mít tinh quần chúng. Có những cuộc mít tinh lớn như cuộc mít tinh lực lượng 3 huyện miền nam tỉnh: Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu. Nhân kỷ niệm ngày quốc tế lao động mùng 1/5/1950 lá cờ Đảng đã tung bay trên gác chuông chùa mặc dù lúc này nơi đây vẫn còn vùng địch tạm chiếm.
Chùa Nghĩa Xá (Viên Quang) là một trong những di tích có giá trị của tỉnh Nam Định. ở đây còn văn bia đời Lý là một trong những bia quý hiếm về nghệ thuật, kiến trúc nhìn tổng thể chùa Nghĩa Xá có quy mô rộng lớn, kiến trúc thời Hậu Lê còn lưu giữ được khá nhiều. Với một vùng đất sa bồi thuộc tỉnh Nam Định, có được kiến trúc như ở đây là điều rất đáng quý.Trong di tích còn lưu giữ tới ba cỗ kiệu Bát, ba nhang án và ba bài vị thời Hậu Lê, khu mộ tháp bằng đá, mô hình tháp đất lung, bốn pho tượng Thánh Tổ cùng với tượng Quan Công, Phổ Hiền bằng đồng…
Hàng năm vào ngày 1/3 âm lịch chính quyền địa phương và nhân dân xã Xuân Ninh lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống nhằm tôn vinh ý nghĩa lịch sử văn hoá của khu di tích, đồng thời qua đó cũng khơi gợi ý thức tự hào của nhân dân địa phương và lòng hảo tâm của khách địa phương trong và ngoài xã để sửa sang và tôn tạo cho khu di tích ngày một khang trang hơn, sạch đẹp hơn.
K NHA
Nhắc đến người con gái Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay tới hình ảnh người con gái với áo dài và nón lá. Chiếc nón lá vừa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với người phụ nữ vừa là một biểu tượng văn hóa của một nét đẹp nghìn năm văn hiến.
Thật vậy, ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam chúng ta đều rất dễ bắt gặp hình ảnh những chiếc nón lá mộc mạc, đơn sơ nhưng nó lại ẩn chứa một vẻ đẹp thuần hậu. Không chỉ đơn thuần là vật dụng che mưa che nắng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn là món quà tinh thần ý nghĩa của Việt Nam. Bạn bè quốc tế đến thăm hay khách du lịch đến Việt Nam thì đều được tặng những chiếc nón lá như là một kỉ niệm đẹp và để tỏ lòng mến khách của người Việt.
Nón lá xuất hiện từ khoảng 2500-3000 TCN và được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Đối với người phụ nữ Việt thì nón lá là một vật dụng quan trọng trong cuộc sống của họ. Trước hết, nón là dùng để che mưa che nắng. Các bà, các mẹ, các chị từ xa xưa đã đội nón lá đi làm đồng, đi chợ và cả đi chơi hội nữa. Ngày tiễn con gái về nhà chồng, bà mẹ cũng thường trao cho con chiếc nón lá với bao lời nhắn gửi yêu thương.
Từ trong đời sống thường ngày, chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa, gợi nguồn cảm hứng cho nhạc, cho thơ. Đã có không ít những bài hát về chiếc nón lá: “Một chiều làng quê trên đường đê lối nhỏ đi về, nụ cười đưa duyên em thẹn thùng trong nón lá che nghiêng” hay “Một người con gái, đứng nghiêng nghiêng vành nón lá. Đường chiều bờ đê, lối xưa kỉ niệm thiết tha”…. Chiếc nón lá còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần trong thơ: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che”. Thế rồi, trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, lúc tiễn người yêu ra chiến trường, cô gái thường đội nón lá với quai tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi cũng đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển. Chỉ như vậy thôi cũng đã đủ làm yên lòng người ra trận.
Có thể thấy rằng, xuyên suốt từ bao đời nay, từ trong thực tế cho đến những làn điệu dân ca, những lời thơ, câu văn đều có bóng dáng hình ảnh chiếc nón lá gắn liền với người con gái Việt Nam dịu dàng, duyên dáng. Ngày nay, để tạo ra chiếc nón lá thì người thợ làm nón cần phải có đôi tay khéo léo, có cả tâm tình mới có thể tạo nên được những chiếc nón xinh xăn và thiết kế tỉ mỉ đến như vậy. Nón lá thường được đan bằng các loại lá cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá dừa, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Những người thổi được hồn vào những chiếc nón, làm nên những chiếc nón đẹp tinh tế là những người thực sự có đôi bàn tay khéo léo và có tâm tình chan chứa.
Là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, chiếc nón lá gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
MB
Lễ hội chùa Hương đã có tự lâu đời. Hằng năm, cứ sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài gần như suốt mùa xuân. Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, Việt kiều và du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để được đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
TB
Tạm biệt chùa Hương, trong tay mỗi du khách đều có vài thứ mang về làm kỉ niệm. Chiếc khánh xà cừ buộc bằng chỉ đỏ đeo vào cổ lấy may, cây gậy trúc đã theo chân suốt cuộc hành trinh, chuỗi hạt bồ đề, gói trà lão mai hay bó rau sắn xanh mướt mà nhà thơ Tản Đà đã nhắc đến trong thơ ông từ những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ trước: Muốn ăn rau sắn Chùa Hương. Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa... Du khách lên xe ra về mà lòng bâng khuâng, lưu luyến, mong cho chóng đến mùa lễ hội năm sau. Chẳng ai bảo ai, mọi người cùng ngoái lại nhìn để in đậm thêm trong tâm tưởng bức tranh tuyệt mĩ của phong cảnh Hương Sơn, để càng thêm yêu mến, tự hào về giang sơn gấm vóc.
Bai tham khảo
Hai làng Tình Quang và Quán Tình tuy quy mô và thời điểm hình thành khác nhau nhưng mỗi làng đều có một ngôi chùa và một ngôi đình làm nơi hội họp, tế lễ, bàn bạc các công việc chung. Trước đây mỗi làng đều có khu Văn chỉ, nơi thờ đức Khổng Tử và dựng các văn bia ghi tên những người có học hành, đỗ đạt của làng. Làng Tình Quang trước đây có một số gia đình tự lập điện thờ Đức thánh Trần như nhà cụ Tranh, cụ Khiếu, cụ Điển Bẩy...
ĐÌNH QUÁN TÌNH
(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.
Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.
Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:
Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).
Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.
Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.
Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.
Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.
Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.
Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.
Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.
Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).
Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.
Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.
Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.
Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).
Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.
Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.
Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.
Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.
Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã .
Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện rong quãng đời sau đó của ông, như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo Vương như “Toàn thư” và “Cương mục” ghi. Ông ốm mất năm 1229.
Theo một số gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Nộn là cháu 5 đời của Nguyễn Bặc và là tổ của họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn - Thanh Hóa), là tổ tiên của chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chính sử nhà Nguyễn không xác nhận điều này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của chính nhà Nguyễn - hậu thế của các chúa Nguyễn - xác nhận, Nguyễn Nộn là “người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” (nay là Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Như vậy, Nguyễn Nộn không phải người Tống Sơn - Thanh Hóa…
Tương truyền, sau khi Nguyễn Nộn mất, dân Quán Tình cùng các làng xã bên bờ Bắc sông Hồng đều lập miếu và tôn ông làm Thành hoàng làng, trải qua các triều vua đều gia phong mỹ tục.
Hiện nay, không có nguồn tư liệu nào ghi chép lại niên đại xây dựng đình Quán Tình. Sự thiếu vắng của nguồn tư liệu thành văn đã không cho phép xác định niên đại xây dựng của ngôi đình một cách chính xác.
Qua tìm hiểu lịch sử hình thành đình Quán Tình và sự tồn tại của ngôi đình trong quá trình lịch sử đến nay, để xác định niên đại của di tích, có thể dựa vào những tư liệu, hiện vật còn lại gắn với sự tồn tại và phát triển của ngôi đình.
Hiện di tích còn lưu giữ được 02 tấm bia, trong đó có bia dựng ngày mùng 1 tháng 1 năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Theo đó, bước đầu có thể đoán định, ngôi đình hiện nay ít nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII, trước năm (1779).
Trải qua thời gian dài tồn tại, đình Quán Tình đã được trùng tu nhiều lần. Trước kia, đình nằm ở vị trí dưới vườn, sau được làm lên ao miếu. Hiện di tích, còn lưu giữ được dòng lạc khoản trên nóc nhà hữu vu đề “Duy Tân Giáp Dần niên, trọng đông thụ trụ thượng lương đại cát” - Ngày tốt, tháng giữa Đông, năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân (1914) cất nóc nhà hữu vu. Năm 1950, hậu cung của đình bị Pháp phá hủy. Hòa bình lập lại, di tích được sử dụng làm trường học. Các đồ thờ tự của đình phần lớn bị mất mát và hư hỏng. Năm Giáp Thân (2004), chính quyền và nhân dân địa phương trùng tu lại toàn bộ ngôi đình trên vị trí và khuôn viên cũ, quy mô giữ nguyên vẹn đến hiện nay.
Đình Quán Tình tọa lạc trên một khu đất rộng thoáng ven đê sông Đuống, phía trước có hồ nước rộng, giữa hồ có gò đất cao tạo cảnh quan đẹp, tiếp đến là nghi môn (gồm một cửa giữa và hai cửa tả, hữu), sau đến sân lễ hội và khu kiến trúc chính chiếm lĩnh vị trí trọng tâm.
Mở đầu di tích là nghi môn, được tạo kiểu tứ trụ. Đỉnh trụ là bốn chim phượng chụm đuôi vào nhau dưới dạng lá lật, bốn đầu phượng quay về bốn hướng tạo thành hình trái giành. Phía dưới tạo hình lồng đèn trang trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Phần thân của trụ biểu được tạo khung để đắp câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt cổ bổng. Đỉnh của hai trụ phụ được trang trí hai tượng nghê trong tư thế chầu xuống. Phía dưới tạo hình mui luyện, lồng đèn, phần thân của trụ biểu cũng được bổ khung (để trơn không trang trí), đế trụ thắt cổ bồng. Phần nối tiếp giữa các cột trụ chính và cột phụ được làm hai cửa tả, hữu dưới dạng mái chồng diêm (hai tầng mái), đỉnh mái trang trí đề tài lưỡng long chầu nhật/nguyệt. Phần cổ diêm bổ khung hình chữ nhật đề ba chữ “Đình Quán Tình”. Hai bên cổng tả, hữu đắp nổi bức phù điêu quan giám sát.
Qua cổng là một lối đi rộng, hai bên trồng cau và các loại cây lưu niên để tạo cảnh quan. Tiếp theo, là một sân lễ hội rộng lát gạch đỏ, kích thước (30 x 30)cm. Qua bậc tam cấp lát đá xanh dẫn lên khu kiến trúc chính.
Đại đình được xây dựng trên một khu nên cao, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, gồm tiền tế và hậu cung.
Tiền tế là một nếp nhà 5 gian, 2 chái, xây gạch, lợp ngói. Các góc mái được uốn cong vút, tạo cảm giác bay bổng cho toàn bộ kiến trúc. Chính giữa bờ nóc trang trí đề tài lưỡng long chậu nhật/nguyệt. Phía trước mở hệ thống cửa bức bàn kiểu thượng song hạ bản ở ba gian giữa, hai gian hồi làm hệ thống song gỗ. Hai bên tường hồi tả, hữu mở hai cửa sổ trang trí chữ “Thọ” nhằm tạo độ thoáng cho không gian bên trong.
Cấu trúc bộ khung gỗ khá vững chắc, với 6 bộ vì kèo được làm theo dạng thức “giá chiêng chồng rường con nhị”, tì lực trên 5 hàng chân cột. Các đầu bẩy phía sau ăn mộng vào cột lửng và gác trực tiếp trên tường hậu. Kết cấu vì gồm những con rường kê lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, dày, cao. Các rường ngắn dần về phía thượng lương, để con rường cuối cùng đội thượng lương qua một đấu nhỏ được trang trí hình chữ Triện. Để tránh sự nặng nề cho bộ vì nóc và thỏa mãn nhu cầu mở rộng lòng nhà, các nghệ nhân đã thay con rường ở sát câu đầu bằng một đôi rường cụt. Kết cấu này vừa mang tính chất chồng rường, vừa mang tính chất giá chiêng. Song, chiếc cột trốn của giá chiêng được thay thế bằng con đường cụt để đội đầu rường trên. Toàn bộ hệ thống trên được đỡ bởi một quá giang to, khỏe, chạm khắc hoa văn thực vật, được ăn mộng vào đầu hai cột cái.
Hậu cung gồm 3 gian chạy dọc, nối với gian giữa tiền tế tạo thành kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Các bộ vì được làm giống như ngoài tiền tế.
Ngoài kiến trúc chính, đình Quán Tình còn hai dãy tả, hữ vu, mỗi dãy 5 gian 2 dĩ, mái lợp ngói ta, nền lát gạch Bát, kích thước (30 x 30)cm.
Nhìn tổng thể, trang trí kiến trúc của đình vẫn bảo lưu được phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống (thế kỷ XX), với những hình tượng gắn với cầu mùa, phát sinh, phát triển… - những ước vọng truyền đời của người nông dân.
Về không gian nội thất và thờ tự: gian giữa tiền tế bài trí một hương án cùng các đồ tế tự. Đây là nơi diễn ra các nghi lễ phụng thờ Thành hoàng làng. Hai bên bài trí chiêng và trống theo quan niệm “tả chinh, hữu cổ” (bên trái treo chiêng, bên phải treo trống). Hồi bên trái thờ hậu thần, hồi phải bài trí kiệu long đình. Các gian bên để trống, làm nơi hội họp mỗi khi có việc làng. Trong tòa hậu cung xây một bệ gạch cao, bên trên bài trí các đồ tế tự và 01 bộ long ngai Thành hoàng làng - “Phụng sự thần hoàng Nguyễn Nộn”. Trên các di vật của đình, như long ngai, bài vị, hạc thờ, kiệu… chủ yếu trang trí đề tài tứ linh. Đôi hạc thờ với chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển, được đặt trên lưng rùa mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX - XX.
Sau một thời gian gián đoạn, trong những năm gần đây, lễ hội Quán Tình đã được phục hội, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng và du khách thập phượng. Theo thông lệ, cứ 5 năm làng tổ chức hội lớn một lần, vào ngày mùng 7 - 8 tháng Hai để tưởng nhớ công đức của vị thần. Trong ngày chính hội, sau lễ khai mạc, dân làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình. Đoàn rước xuất phát từ sân đình ngược lên đê sông Đuống, đến cầu Đuống để lấy nước. Sau khi lấy nước ở giữa sông Đuống, đoàn rước trở về đình, dân làng tổ chức tế thánh. Chủ tế thường là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt, thân nhân trong sạch, trai gái đề huề, nhà không vướng bụi (có tang)... Trong đòn tế còn có 4 quan viên bồi tế và những người chấp sự… Trước đây, làng chỉ có đội tế nam, hiện nay còn có thêm đội tế nữ.
Theo tục lệ, ban tổ chức lễ hội dành riêng ngày 7 tháng Hai để dân làng và khách thập phương lễ thánh. Nhân dân háo hức, thành tâm sắm lễ mang ra đình, với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nhà nhà no đủ...
Trong ngày chính hội, có cả ngàn người đến với lễ hội Quán Tình, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa, tiếng nhạc của hội bát âm, tiếng phách sinh tiền đã tạo nên quang cảnh ngày hội làm nức lòng người. Ngoài những lễ nghi, trong hội còn những hoạt động văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc, như đấu vật, bóng chuyền, đánh cờ, đan võng truyền thống.
Trong bối cảnh náo nhiệt của xu thế đô thị hóa hiện nay, sự tồn tại của đình Quán Tình cùng với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học liên quan đã góp phần làm phong phú thêm hệ thống di tích lịch sử - văn hóa trong khu vực và Thủ đô. Đó là một điểm sáng văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong hiện tại và tương lai./.
CHÙA QUÁN TÌNH (THÁI LINH QUÁN TỰ)
(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Chùa Quán Tình còn có tên gọi khác là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh quán”, nằm trên địa phận phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Cuối thời Lê Trung hưng, đầu thời Nguyễn, Quán Tình/Kẻ Tạnh là một xã thuộc tổng Đặng Xá huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng thứ ba - 1822, đổi làm trấn Bắc Ninh, năm thứ 12 - 1831, đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Trong kháng chiến chống Pháp, Quán Tình thuộc xã Trường Chinh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Sau cải cách ruộng đất, xã Trường Chinh đổi tên thành Giang Biên…
Quán Tình, tức Kẻ Tạnh (vùng trời quang đất tạnh) - Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quanh cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân, trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của công chúa với nhân dân nơi đây.
Xưa kia, làng Quán Tình nằm phía trong đê, có xóm trên và xóm dưới. Đến năm 1956, xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình.
Đến tháng 5/1961, xã Giang Biên cùng các xã của huyện Gia Lâm được chuyển về Hà Nội. Từ cuối tháng 11 năm 2004, xã Giang Biên được chuyển thành phường Giang Biên, thuộc quận Long Biên. Quán Tình có 3 dòng họ chính là: họ Vũ, họ Nguyễn và họ Trần, từng nổi tiếng với nghề nghề trồng đay vặn võng. Cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, dựng làng giữ nước, Giang Biên còn có truyền thống lịch sử - văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn phường, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Trong đó, có đình - chùa Quán Tình, một cụm di tích có lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử phát triển của địa phương.
Quán Tình nằm ở ven sông Đuống, có bãi bờ màu mỡ, một điều kiện rất thuận lợi để dân làng canh tác hoa màu và trồng dâu nuôi tằm. Một số người dân trong làng từng buôn bán tre, gỗ - từ sông Đuống, theo sông Hồng, lên các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.
Sống ven sông Đuống, giữa một vùng chịu nhiều tác động của thiên nhiên và xã hội, nên người Quán Tình có bản tính cứng cỏi, đủ sức chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Dưới thời quân chủ, làng có rất nhiều người theo nghiệp võ. Cuối thế kỷ XVIII, làng nổi lên với Vũ Văn Khuê, một viên quan võ, làm Tham Đốc Tứ thành, vào năm Đinh Mùi đời Chiêu Thống (1787), đã chiêu binh chống lại quân Tây Sơn, sau bị bắt và giết. Hai con của ông là Vũ Tuân và Vũ Hoan theo Chiêu Thống sang tận Yên Kinh (Trung Quốc) rồi chết ở đó. Làng thờ Hoài Đạo cư sĩ, vừa là một Nho sĩ, vừa là một Đạo sĩ, rất giỏi kiếm thuật, từng ở chùa Sùng Khánh (làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc huyện Gia Lâm). Vào đời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224), đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, dưới đồng bằng, giặc cướp nổi lên như ong, vùng biên cương giặc Man gây nhiễu, triều đình không thể dẹp yên được. Các quan trong triều đã tiến cử Hoài Đạo cư sĩ. Ông đã nhận lệnh lên đường dẹp loạn. Khi Trần Thủ Độ mưu toan soán ngôi nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi để lập ra nhà Trần, với tư tưởng trung quân, Hoài Đạo cư sĩ đã dấy quân chiếm cứ vùng Bắc Ninh - Bắc Giang, tự xưng là Hoài Đạo Vương, liên kết cùng Đoàn Thượng chống lại. Thủ Độ đem quân trấn dẹp nhưng không được, phải giảng hòa, rồi dùng kế ly tán để Hoài Đạo cư sĩ chống lại và đánh tan thế lực của Đoàn Thượng. Với thanh thế lẫy lừng, Hoài Đạo cư sĩ tự xung là Đại Thắng Vương. Thủ Độ lo sợ, phải xin vua Trần phong cho Hoài Đạo cư sĩ làm Hoài Đạo Hiếu Vũ vương, lại gả cho công chúa Ngoạn Thiền. Sau đó, Hoài Đạo đã cùng công chúa lập tư dinh ở xã Ninh Giang (nay là đất Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), cùng chung sống đến cuối đời. Sau khi ông mất, được an tang tại xứ đồng Mạc, làng Phù Dực (nay thuộc xã Phù Đổng). Nhiều làng ven sông Đuống tôn thờ Hoài Đạo làm Phúc thần, tế lễ long trọng vào ngày mồng Một tháng Ba, tức ngày hóa của ông.
Có lẽ, từ xa xưa, làng Quán Tình đã có Đạo quán (Thái Linh quán), sau được chuyển hóa thành chùa - Thái Linh Quán tự. Tấm bia khắc năm Thịnh Đức thứ ba (1655) cho biết, Thái Linh Quán tự là cổ tích danh lam, triều trước dựng ở gần sông, sau bị trôi mất, nay phải dựng lại, do công của Chánh Vương phủ nội cung tần cung tiến của tiền.
Chùa quay hướng Đông Nam, gồm các hạng mục chính: cổng, sân, tiền đường, thượng điện, điện Mẫu, nhà tăng, nhà bia, tháp mộ,…
Cổng chùa là một kiến trúc xây bằng gạch, với ba cửa ra vào, có mái che. Bên trên ghi bốn chữ “Thái Linh Quán tự”. Qua cổng là một sân rộng lát gạch Giếng Đáy màu đỏ, có kích thước (30 x 30) cm. Sát hiên tiền đường đặt một lư hương đá, hai bên đặt 2 tượng sư tử hý cầu bằng chất liệu đá. Phía trước là một ao rộng, quanh sân là khu vườn chùa, trồng nhiều loại cây lưu niên, tạo cảnh quan bóng mát.
Tiền đường gồm 5 gian hai dĩ, xây gạch, được kết cấu theo dạng chồng diêm, hai tầng tám mái, lợp ngói ta, với các hệ thống trấn song con tiện bằng gỗ. Phía trước là một khoảng hiên rộng khoảng 1,6m, với 9 hàng chân cột bằng đá, hình trụ tròn, với mặt trước khắc câu đối bằng chữ Hán, bẩy hiên trang trí hình rồng lá, sư tử vờn cầu. Mặt trước tiền đường có hệ thống cửa bức bàn kiểu “thượng song hạ bản”, phía dưới trang trí hoa sen, bên trên là chữ Phúc, hoa văn hình học, cuốn thư. Phần nền tiền đường được tôn cao hơn mặt sân, với chín bậc lên xuống, bằng chất liệu đá. Hành lang xung được cấu trúc theo dạng tường lửng, có các cột trụ đỡ mái tạo sự chắc, khỏe cho kiến trúc, phía dưới các chân cột đá tạo tác hình hoa sen cách điệu. Bộ khung kiến trúc liên kết với nhau bằng các bộ vì kèo được làm theo dạng thức giá chiêng chồng rường con nhị, hạ cốn mê, bẩy hiên, tì lực trên 4 hàng chân, gồm 2 hàng cột cái và một hàng cột hiên. Các bộ vì cột trốn tì lực lên hệ thống tường hậu phía sau. Phía trước, tiếp giáp với tường hồi là cột đồng trụ, bên trên đắp hình bốn con phượng, trong tư thế chụm đầu vào nhau, tạo hình trái giành. Phía dưới là các ô lồng đèn, bốn phía đắp đề tài “tứ linh”. Thân trụ bổ ô đắp câu đối chữ Hán. Tiền đường là nơi bài trí tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Hộ pháp (Khuyến Thiện, Trừng Ác). Các tượng này đều được đặt trên ban thờ cùng với hệ thống các đồ thờ khác, như bát hương, mâm bồng, lọ hoa, chân đèn…
Thượng điện gồm 1 gian 2 dĩ, nối liền với gian giữa nhà tiền đường, với phần trong cùng được làm theo kiểu bát giác. Chính giữa xây bậc bên trên đặt 5 lớp tượng, gồm: Tam thế Phật; Di Đà Tam tôn; Hoa Nghiêm Tam Thánh; Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; Phật A Di Đà (bằng đá xanh, cao khoảng 1,7m).
Các gian trong thượng điện đều treo cửa võng, trang trí bánh xe pháp luân và hoa cúc, bên dưới treo câu đối. Phía ngoài cùng, sát với gian tiền đường là tòa cửu long và tượng Thích Ca sơ sinh.
Điện Mẫu nằm bên cạnh chùa chính, mới được nhân dân tu bổ và tôn tạo. Chính giữa điện thờ là tượng đức Thánh Trần Hưng Đạo, vị tướng có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên - Mông bảo vệ xã tắc, phía dưới là Tam tòa Thánh Mẫu. Đây là một hình thức tín ngưỡng dân dã gắn Mẫu với chức năng tạo thiên, lập địa để mang tư cách như một anh hùng văn hóa của dân tộc…
Nhà Tăng ở phía sau, bên trái Tam bảo, được dựng năm 2005, gồm 5 gian tường hồi bít đốc. Nhà bia dược dựng trong thời kỳ hòa bình lập lại để làm nơi thờ Phật tạm thời. Sau khi tu bôt Tam bảo thì kiến trúc này được chuyển thành nhà bia. Khu vườn tháp ở phía sau điện Mẫu.
Ngoài giá trị về mặt kiến trúc - nghệ thuật, chùa Quán Tình còn lưu giữ được hệ thống văn bia, chuông, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, cùng một số đồ thờ tự khác. Dây là những di vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, đồng thời còn là những di vật quý trong kho tàng di sản văn hóa nước ta, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về sự phát triển, hình thành của cư dân làng xã, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.
Các hoạt động văn hóa, lễ hội luôn là một phần không thể thiếu trong mỗi di tích và góp phần không nhỏ vào việc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy giá trị di tích, đưa đạo pháp đến với con người. Ngoài chức năng là nơi tu tập, hằng năm chùa Quán Tình còn tổ chức các lễ tiết sau (tính theo lịch Âm):
+ Ngày 15/1: Lễ Thượng nguyên.
+ Ngày 08/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca xuất gia đi tu.
+ Ngày 15/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn.
+ Ngày 19/2: Lễ vía Bồ Tát Quan Âm.
+ Ngày 21/2: Lễ vía Bồ Tát Phổ Hiền.
+ Ngày 16/3: Lễ vía Đức Quan Âm chuẩn đề.
+ Ngày 04/4: Lễ vía Bồ tát.
+ Ngày 15/4: Lễ vía Đức Phật Thích Ca đản sinh (lễ Phật đản).
+ Tháng 6: Lễ vía Đức Bồ Tát Quan Âm thành đạo.
+ Tháng 7: Lễ vía Đức Đại thế Chí Bồ Tát.
+ Ngày 15/7: Lễ Vu Lan báo hiếu.
+ Ngày 30/7: Lễ vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
+ Ngày 19/9: Lễ vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia.
+ Ngày 17/11: Lễ khánh đản Đức Phật A Di Đà.
+ Ngày 08/12: Lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành đạo.
+ Các ngày lễ khác theo tín ngưỡng thờ Mẫu, giỗ tổ chùa…
Bên cạnh đó, những ngày tuần rằm, mùng một, hoạt động cúng lễ tại chùa vẫn diễn ra thường xuyên, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh và tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Từ những nét khái quát trên đây, có thể nhận thấy, chùa Quán Tình là một di sản kiến trúc - nghệ thuật có giá trị của cộng đồng sở tại cũng như của quận Long Biên. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích này hứa hẹn sẽ mang lại những đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong bối cảnh hiện nay./.
Chùa Quán Tình có tên chữ là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh tự” . Chùa nằm phía bên trái của đình, ngay gần sát chân đê sông Đuống. Ngôi chùa vừa được tu sửa cùng với đình vào năm 2004. Chùa chính có kết cấu hình chữ đinh, toà Tiền đường có 5 gian 2 mái, xây theo kiểu tường hồi bít đốc. Phần Thượng điện được đựng theo dạng lầu bát giác, với 2 tầng 8 mái.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa rõ chùa Quán Tình được xây dựng từ bao giờ, vì chưa có tư liệu nào nói đến việc khởi dựng. Chùa còn giữ được rất nhiều bia đá cổ, tấm bia hậu có niên đại sớm nhất lập năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), trong đó có khắc bài thơ rất hay miêu tả cảnh đẹp của chùa và ghi danh những người công đức tiền, ruộng để tu sửa chùa. Đây là một tấm bia đá rất quý để nghiên cứu sự tồn tại của di tích chùa Quán Tình. Như vậy vào giữa thế kỷ XVII, chùa Quán Tình đã được tu sửa, mở rộng khuôn viên.
Văn bia lập năm Ất Mùi (1775) có ghi: “Nguyên xưa kia có bia chùa Thái Linh, triều trước lập dựng ngay gần sông, do nước xoáy lở mà bị thất lạc, nay cho sửa nền đất mà ghi lại các vật trong Tam bảo”. Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 1655 đến năm 1775, chùa Quán Tình có sự chuyển dịch đến vị trí hiện nay.
Hiện chùa còn lưu giữ một quả chuông đồng có niên đại Cảnh Thịnh thứ 8 (1800). Nội dung Bài minh trên chuông cho thấy toàn xã quan viên lớn nhỏ. cùng góp công của để đúc một quả chuông. Minh chuông còn khắc bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của chốn thiền môn..
Ngoài các hiện vật nêu trên, chùa còn lưu giữ được 3 tấm bia hậu, 1 Thạch đài trụ (vẫn quen gọi là Cây hương đá) và hệ thống tượng Phật mang phong cách nghệ thuật Nguyễn (cuối thế kỷ XIX).
Qua hệ thống bia đá hiện còn tại chùa, nguồn tư liệu quý giá phần nào giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử làng xã những biến động không ngừng của dòng chảy Thiên Đức đã tạo cho một Quán Tình những bước thăng trầm. Mặt khác, chùa còn lưu giữ được quả chuông đã góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình và đúc đồng dưới thời Tây Sơn, đồng thời cũng góp phần vào việc nghiên cứu mỹ thuật cổ truyền đương thời.
Chùa Quán Tình, ngày nay đã được tu sửa để phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong vùng.
cBài tham khảo
Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.
Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.
Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:
Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).
Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.
Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.
Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.
Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.
Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.
Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.
Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.
Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).
Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.
Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.
Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.
Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).
Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.
Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.
Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.
Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.
Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã .
Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện rong quãng đời sau đó của ông, như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo Vương như “Toàn thư” và “Cương mục” ghi. Ông ốm mất năm 1229.
Theo một số gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Nộn là cháu 5 đời của Nguyễn Bặc và là tổ của họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn - Thanh Hóa), là tổ tiên của chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chính sử nhà Nguyễn không xác nhận điều này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của chính nhà Nguyễn - hậu thế của các chúa Nguyễn - xác nhận, Nguyễn Nộn là “người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” (nay là Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Như vậy, Nguyễn Nộn không phải người Tống Sơn - Thanh Hóa…
Tương truyền, sau khi Nguyễn Nộn mất, dân Quán Tình cùng các làng xã bên bờ Bắc sông Hồng đều lập miếu và tôn ông làm Thành hoàng làng, trải qua các triều vua đều gia phong mỹ tục.
Hiện nay, không có nguồn tư liệu nào ghi chép lại niên đại xây dựng đình Quán Tình. Sự thiếu vắng của nguồn tư liệu thành văn đã không cho phép xác định niên đại xây dựng của ngôi đình một cách chính xác.
Qua tìm hiểu lịch sử hình thành đình Quán Tình và sự tồn tại của ngôi đình trong quá trình lịch sử đến nay, để xác định niên đại của di tích, có thể dựa vào những tư liệu, hiện vật còn lại gắn với sự tồn tại và phát triển của ngôi đình.
Hiện di tích còn lưu giữ được 02 tấm bia, trong đó có bia dựng ngày mùng 1 tháng 1 năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Theo đó, bước đầu có thể đoán định, ngôi đình hiện nay ít nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII, trước năm (1779).
Trải qua thời gian dài tồn tại, đình Quán Tình đã được trùng tu nhiều lần. Trước kia, đình nằm ở vị trí dưới vườn, sau được làm lên ao miếu. Hiện di tích, còn lưu giữ được dòng lạc khoản trên nóc nhà hữu vu đề “Duy Tân Giáp Dần niên, trọng đông thụ trụ thượng lương đại cát” - Ngày tốt, tháng giữa Đông, năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân (1914) cất nóc nhà hữu vu. Năm 1950, hậu cung của đình bị Pháp phá hủy. Hòa bình lập lại, di tích được sử dụng làm trường học. Các đồ thờ tự của đình phần lớn bị mất mát và hư hỏng. Năm Giáp Thân (2004), chính quyền và nhân dân địa phương trùng tu lại toàn bộ ngôi đình trên vị trí và khuôn viên cũ, quy mô giữ nguyên vẹn đến hiện nay.
Đình Quán Tình tọa lạc trên một khu đất rộng thoáng ven đê sông Đuống, phía trước có hồ nước rộng, giữa hồ có gò đất cao tạo cảnh quan đẹp, tiếp đến là nghi môn (gồm một cửa giữa và hai cửa tả, hữu), sau đến sân lễ hội và khu kiến trúc chính chiếm lĩnh vị trí trọng tâm.
Mở đầu di tích là nghi môn, được tạo kiểu tứ trụ. Đỉnh trụ là bốn chim phượng chụm đuôi vào nhau dưới dạng lá lật, bốn đầu phượng quay về bốn hướng tạo thành hình trái giành. Phía dưới tạo hình lồng đèn trang trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Phần thân của trụ biểu được tạo khung để đắp câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt cổ bổng. Đỉnh của hai trụ phụ được trang trí hai tượng nghê trong tư thế chầu xuống. Phía dưới tạo hình mui luyện, lồng đèn, phần thân của trụ biểu cũng được bổ khung (để trơn không trang trí), đế trụ thắt cổ bồng. Phần nối tiếp giữa các cột trụ chính và cột phụ được làm hai cửa tả, hữu dưới dạng mái chồng diêm (hai tầng mái), đỉnh mái trang trí đề tài lưỡng long chầu nhật/nguyệt. Phần cổ diêm bổ khung hình chữ nhật đề ba chữ “Đình Quán Tình”. Hai bên cổng tả, hữu đắp nổi bức phù điêu quan giám sát.
Qua cổng là một lối đi rộng, hai bên trồng cau và các loại cây lưu niên để tạo cảnh quan. Tiếp theo, là một sân lễ hội rộng lát gạch đỏ, kích thước (30 x 30)cm. Qua bậc tam cấp lát đá xanh dẫn lên khu kiến trúc chính.
Đại đình được xây dựng trên một khu nên cao, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, gồm tiền tế và hậu cung.
Tiền tế là một nếp nhà 5 gian, 2 chái, xây gạch, lợp ngói. Các góc mái được uốn cong vút, tạo cảm giác bay bổng cho toàn bộ kiến trúc. Chính giữa bờ nóc trang trí đề tài lưỡng long chậu nhật/nguyệt. Phía trước mở hệ thống cửa bức bàn kiểu thượng song hạ bản ở ba gian giữa, hai gian hồi làm hệ thống song gỗ. Hai bên tường hồi tả, hữu mở hai cửa sổ trang trí chữ “Thọ” nhằm tạo độ thoáng cho không gian bên trong.
Cấu trúc bộ khung gỗ khá vững chắc, với 6 bộ vì kèo được làm theo dạng thức “giá chiêng chồng rường con nhị”, tì lực trên 5 hàng chân cột. Các đầu bẩy phía sau ăn mộng vào cột lửng và gác trực tiếp trên tường hậu. Kết cấu vì gồm những con rường kê lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, dày, cao. Các rường ngắn dần về phía thượng lương, để con rường cuối cùng đội thượng lương qua một đấu nhỏ được trang trí hình chữ Triện. Để tránh sự nặng nề cho bộ vì nóc và thỏa mãn nhu cầu mở rộng lòng nhà, các nghệ nhân đã thay con rường ở sát câu đầu bằng một đôi rường cụt. Kết cấu này vừa mang tính chất chồng rường, vừa mang tính chất giá chiêng. Song, chiếc cột trốn của giá chiêng được thay thế bằng con đường cụt để đội đầu rường trên. Toàn bộ hệ thống trên được đỡ bởi một quá giang to, khỏe, chạm khắc hoa văn thực vật, được ăn mộng vào đầu hai cột cái.
Hậu cung gồm 3 gian chạy dọc, nối với gian giữa tiền tế tạo thành kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Các bộ vì được làm giống như ngoài tiền tế.
Ngoài kiến trúc chính, đình Quán Tình còn hai dãy tả, hữ vu, mỗi dãy 5 gian 2 dĩ, mái lợp ngói ta, nền lát gạch Bát, kích thước (30 x 30)cm.
Nhìn tổng thể, trang trí kiến trúc của đình vẫn bảo lưu được phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống (thế kỷ XX), với những hình tượng gắn với cầu mùa, phát sinh, phát triển… - những ước vọng truyền đời của người nông dân.
Về không gian nội thất và thờ tự: gian giữa tiền tế bài trí một hương án cùng các đồ tế tự. Đây là nơi diễn ra các nghi lễ phụng thờ Thành hoàng làng. Hai bên bài trí chiêng và trống theo quan niệm “tả chinh, hữu cổ” (bên trái treo chiêng, bên phải treo trống). Hồi bên trái thờ hậu thần, hồi phải bài trí kiệu long đình. Các gian bên để trống, làm nơi hội họp mỗi khi có việc làng. Trong tòa hậu cung xây một bệ gạch cao, bên trên bài trí các đồ tế tự và 01 bộ long ngai Thành hoàng làng - “Phụng sự thần hoàng Nguyễn Nộn”. Trên các di vật của đình, như long ngai, bài vị, hạc thờ, kiệu… chủ yếu trang trí đề tài tứ linh. Đôi hạc thờ với chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển, được đặt trên lưng rùa mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX - XX.
Sau một thời gian gián đoạn, trong những năm gần đây, lễ hội Quán Tình đã được phục hội, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng và du khách thập phượng. Theo thông lệ, cứ 5 năm làng tổ chức hội lớn một lần, vào ngày mùng 7 - 8 tháng Hai để tưởng nhớ công đức của vị thần. Trong ngày chính hội, sau lễ khai mạc, dân làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình. Đoàn rước xuất phát từ sân đình ngược lên đê sông Đuống, đến cầu Đuống để lấy nước. Sau khi lấy nước ở giữa sông Đuống, đoàn rước trở về đình, dân làng tổ chức tế thánh. Chủ tế thường là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt, thân nhân trong sạch, trai gái đề huề, nhà không vướng bụi (có tang)... Trong đòn tế còn có 4 quan viên bồi tế và những người chấp sự… Trước đây, làng chỉ có đội tế nam, hiện nay còn có thêm đội tế nữ.
Theo tục lệ, ban tổ chức lễ hội dành riêng ngày 7 tháng Hai để dân làng và khách thập phương lễ thánh. Nhân dân háo hức, thành tâm sắm lễ mang ra đình, với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nhà nhà no đủ...
Trong ngày chính hội, có cả ngàn người đến với lễ hội Quán Tình, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa, tiếng nhạc của hội bát âm, tiếng phách sinh tiền đã tạo nên quang cảnh ngày hội làm nức lòng người. Ngoài những lễ nghi, trong hội còn những hoạt động văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc, như đấu vật, bóng chuyền, đánh cờ, đan võng truyền thống.
Trong bối cảnh náo nhiệt của xu thế đô thị hóa hiện nay, sự tồn tại của đình Quán Tình cùng với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học liên quan đã góp phần làm phong phú thêm hệ thống di tích lịch sử - văn hóa trong khu vực và Thủ đô. Đó là một điểm sáng văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong hiện tại và tương lai./.
(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích đình Quán Tình - Tư liệu Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội).
Hình ảnh Di tích Đình Quán Tình
CHÙA QUÁN TÌNH (THÁI LINH QUÁN TỰ)
(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Chùa Quán Tình còn có tên gọi khác là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh quán”, nằm trên địa phận phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Cuối thời Lê Trung hưng, đầu thời Nguyễn, Quán Tình/Kẻ Tạnh là một xã thuộc tổng Đặng Xá huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng thứ ba - 1822, đổi làm trấn Bắc Ninh, năm thứ 12 - 1831, đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Trong kháng chiến chống Pháp, Quán Tình thuộc xã Trường Chinh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Sau cải cách ruộng đất, xã Trường Chinh đổi tên thành Giang Biên…
Quán Tình, tức Kẻ Tạnh (vùng trời quang đất tạnh) - Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quanh cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân, trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của công chúa với nhân dân nơi đây.
Xưa kia, làng Quán Tình nằm phía trong đê, có xóm trên và xóm dưới. Đến năm 1956, xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình.
Đến tháng 5/1961, xã Giang Biên cùng các xã của huyện Gia Lâm được chuyển về Hà Nội. Từ cuối tháng 11 năm 2004, xã Giang Biên được chuyển thành phường Giang Biên, thuộc quận Long Biên. Quán Tình có 3 dòng họ chính là: họ Vũ, họ Nguyễn và họ Trần, từng nổi tiếng với nghề nghề trồng đay vặn võng. Cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, dựng làng giữ nước, Giang Biên còn có truyền thống lịch sử - văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn phường, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Trong đó, có đình - chùa Quán Tình, một cụm di tích có lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử phát triển của địa phương.
Quán Tình nằm ở ven sông Đuống, có bãi bờ màu mỡ, một điều kiện rất thuận lợi để dân làng canh tác hoa màu và trồng dâu nuôi tằm. Một số người dân trong làng từng buôn bán tre, gỗ - từ sông Đuống, theo sông Hồng, lên các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.
Sống ven sông Đuống, giữa một vùng chịu nhiều tác động của thiên nhiên và xã hội, nên người Quán Tình có bản tính cứng cỏi, đủ sức chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Dưới thời quân chủ, làng có rất nhiều người theo nghiệp võ. Cuối thế kỷ XVIII, làng nổi lên với Vũ Văn Khuê, một viên quan võ, làm Tham Đốc Tứ thành, vào năm Đinh Mùi đời Chiêu Thống (1787), đã chiêu binh chống lại quân Tây Sơn, sau bị bắt và giết. Hai con của ông là Vũ Tuân và Vũ Hoan theo Chiêu Thống sang tận Yên Kinh (Trung Quốc) rồi chết ở đó. Làng thờ Hoài Đạo cư sĩ, vừa là một Nho sĩ, vừa là một Đạo sĩ, rất giỏi kiếm thuật, từng ở chùa Sùng Khánh (làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc huyện Gia Lâm). Vào đời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224), đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, dưới đồng bằng, giặc cướp nổi lên như ong, vùng biên cương giặc Man gây nhiễu, triều đình không thể dẹp yên được. Các quan trong triều đã tiến cử Hoài Đạo cư sĩ. Ông đã nhận lệnh lên đường dẹp loạn. Khi Trần Thủ Độ mưu toan soán ngôi nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi để lập ra nhà Trần, với tư tưởng trung quân, Hoài Đạo cư sĩ đã dấy quân chiếm cứ vùng Bắc Ninh - Bắc Giang, tự xưng là Hoài Đạo Vương, liên kết cùng Đoàn Thượng chống lại. Thủ Độ đem quân trấn dẹp nhưng không được, phải giảng hòa, rồi dùng kế ly tán để Hoài Đạo cư sĩ chống lại và đánh tan thế lực của Đoàn Thượng. Với thanh thế lẫy lừng, Hoài Đạo cư sĩ tự xung là Đại Thắng Vương. Thủ Độ lo sợ, phải xin vua Trần phong cho Hoài Đạo cư sĩ làm Hoài Đạo Hiếu Vũ vương, lại gả cho công chúa Ngoạn Thiền. Sau đó, Hoài Đạo đã cùng công chúa lập tư dinh ở xã Ninh Giang (nay là đất Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), cùng chung sống đến cuối đời. Sau khi ông mất, được an tang tại xứ đồng Mạc, làng Phù Dực (nay thuộc xã Phù Đổng). Nhiều làng ven sông Đuống tôn thờ Hoài Đạo làm Phúc thần, tế lễ long trọng vào ngày mồng Một tháng Ba, tức ngày hóa của ông.
Có lẽ, từ xa xưa, làng Quán Tình đã có Đạo quán (Thái Linh quán), sau được chuyển hóa thành chùa - Thái Linh Quán tự. Tấm bia khắc năm Thịnh Đức thứ ba (1655) cho biết, Thái Linh Quán tự là cổ tích danh lam, triều trước dựng ở gần sông, sau bị trôi mất, nay phải dựng lại, do công của Chánh Vương phủ nội cung tần cung tiến của tiền.
Chùa quay hướng Đông Nam, gồm các hạng mục chính: cổng, sân, tiền đường, thượng điện, điện Mẫu, nhà tăng, nhà bia, tháp mộ,…
Cổng chùa là một kiến trúc xây bằng gạch, với ba cửa ra vào, có mái che. Bên trên ghi bốn chữ “Thái Linh Quán tự”. Qua cổng là một sân rộng lát gạch Giếng Đáy màu đỏ, có kích thước (30 x 30) cm. Sát hiên tiền đường đặt một lư hương đá, hai bên đặt 2 tượng sư tử hý cầu bằng chất liệu đá. Phía trước là một ao rộng, quanh sân là khu vườn chùa, trồng nhiều loại cây lưu niên, tạo cảnh quan bóng mát.
Tiền đường gồm 5 gian hai dĩ, xây gạch, được kết cấu theo dạng chồng diêm, hai tầng tám mái, lợp ngói ta, với các hệ thống trấn song con tiện bằng gỗ. Phía trước là một khoảng hiên rộng khoảng 1,6m, với 9 hàng chân cột bằng đá, hình trụ tròn, với mặt trước khắc câu đối bằng chữ Hán, bẩy hiên trang trí hình rồng lá, sư tử vờn cầu. Mặt trước tiền đường có hệ thống cửa bức bàn kiểu “thượng song hạ bản”, phía dưới trang trí hoa sen, bên trên là chữ Phúc, hoa văn hình học, cuốn thư. Phần nền tiền đường được tôn cao hơn mặt sân, với chín bậc lên xuống, bằng chất liệu đá. Hành lang xung được cấu trúc theo dạng tường lửng, có các cột trụ đỡ mái tạo sự chắc, khỏe cho kiến trúc, phía dưới các chân cột đá tạo tác hình hoa sen cách điệu. Bộ khung kiến trúc liên kết với nhau bằng các bộ vì kèo được làm theo dạng thức giá chiêng chồng rường con nhị, hạ cốn mê, bẩy hiên, tì lực trên 4 hàng chân, gồm 2 hàng cột cái và một hàng cột hiên. Các bộ vì cột trốn tì lực lên hệ thống tường hậu phía sau. Phía trước, tiếp giáp với tường hồi là cột đồng trụ, bên trên đắp hình bốn con phượng, trong tư thế chụm đầu vào nhau, tạo hình trái giành. Phía dưới là các ô lồng đèn, bốn phía đắp đề tài “tứ linh”. Thân trụ bổ ô đắp câu đối chữ Hán. Tiền đường là nơi bài trí tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Hộ pháp (Khuyến Thiện, Trừng Ác). Các tượng này đều được đặt trên ban thờ cùng với hệ thống các đồ thờ khác, như bát hương, mâm bồng, lọ hoa, chân đèn…
Thượng điện gồm 1 gian 2 dĩ, nối liền với gian giữa nhà tiền đường, với phần trong cùng được làm theo kiểu bát giác. Chính giữa xây bậc bên trên đặt 5 lớp tượng, gồm: Tam thế Phật; Di Đà Tam tôn; Hoa Nghiêm Tam Thánh; Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; Phật A Di Đà (bằng đá xanh, cao khoảng 1,7m).
Các gian trong thượng điện đều treo cửa võng, trang trí bánh xe pháp luân và hoa cúc, bên dưới treo câu đối. Phía ngoài cùng, sát với gian tiền đường là tòa cửu long và tượng Thích Ca sơ sinh.
Điện Mẫu nằm bên cạnh chùa chính, mới được nhân dân tu bổ và tôn tạo. Chính giữa điện thờ là tượng đức Thánh Trần Hưng Đạo, vị tướng có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên - Mông bảo vệ xã tắc, phía dưới là Tam tòa Thánh Mẫu. Đây là một hình thức tín ngưỡng dân dã gắn Mẫu với chức năng tạo thiên, lập địa để mang tư cách như một anh hùng văn hóa của dân tộc…
Nhà Tăng ở phía sau, bên trái Tam bảo, được dựng năm 2005, gồm 5 gian tường hồi bít đốc. Nhà bia dược dựng trong thời kỳ hòa bình lập lại để làm nơi thờ Phật tạm thời. Sau khi tu bôt Tam bảo thì kiến trúc này được chuyển thành nhà bia. Khu vườn tháp ở phía sau điện Mẫu.
Ngoài giá trị về mặt kiến trúc - nghệ thuật, chùa Quán Tình còn lưu giữ được hệ thống văn bia, chuông, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, cùng một số đồ thờ tự khác. Dây là những di vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, đồng thời còn là những di vật quý trong kho tàng di sản văn hóa nước ta, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về sự phát triển, hình thành của cư dân làng xã, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.
Các hoạt động văn hóa, lễ hội luôn là một phần không thể thiếu trong mỗi di tích và góp phần không nhỏ vào việc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy giá trị di tích, đưa đạo pháp đến với con người. Ngoài chức năng là nơi tu tập, hằng năm chùa Quán Tình còn tổ chức các lễ tiết sau (tính theo lịch Âm):
+ Ngày 15/1: Lễ Thượng nguyên.
+ Ngày 08/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca xuất gia đi tu.
+ Ngày 15/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn.
+ Ngày 19/2: Lễ vía Bồ Tát Quan Âm.
+ Ngày 21/2: Lễ vía Bồ Tát Phổ Hiền.
+ Ngày 16/3: Lễ vía Đức Quan Âm chuẩn đề.
+ Ngày 04/4: Lễ vía Bồ tát.
+ Ngày 15/4: Lễ vía Đức Phật Thích Ca đản sinh (lễ Phật đản).
+ Tháng 6: Lễ vía Đức Bồ Tát Quan Âm thành đạo.
+ Tháng 7: Lễ vía Đức Đại thế Chí Bồ Tát.
+ Ngày 15/7: Lễ Vu Lan báo hiếu.
+ Ngày 30/7: Lễ vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
+ Ngày 19/9: Lễ vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia.
+ Ngày 17/11: Lễ khánh đản Đức Phật A Di Đà.
+ Ngày 08/12: Lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành đạo.
+ Các ngày lễ khác theo tín ngưỡng thờ Mẫu, giỗ tổ chùa…
Bên cạnh đó, những ngày tuần rằm, mùng một, hoạt động cúng lễ tại chùa vẫn diễn ra thường xuyên, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh và tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Từ những nét khái quát trên đây, có thể nhận thấy, chùa Quán Tình là một di sản kiến trúc - nghệ thuật có giá trị của cộng đồng sở tại cũng như của quận Long Biên. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích này hứa hẹn sẽ mang lại những đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong bối cảnh hiện nay./.
(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Quán Tình - Tư liệu Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội).
Hình ảnh di tích chùa Quán Tình
Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam.
Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần trùng tu.
Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùa nào lại được tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) làm toàn bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn đá xanh rộng gần 2m và 350 vây cột lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.
Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu "tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao 11,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo. Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phượng! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!
Những ngày gần đây, Cát Bà đang là điểm đến được khách du lịch yêu thích và tìm kiếm đến mức quá tải, khiến cho nơi này luôn đông đúc, chật chội. Vậy tại sao bạn không thử tìm đến một bãi biển đẹp tương tự, lại thanh bình và yên tĩnh hơn rất nhiều? Biển Cồn Vành tại Thái Bình là một lựa chọn đúng đắn dành cho bạn.
Bãi biển Cồn Vành thuộc xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, cách trung tâm thành phố Thái Bình khoảng 25km về phía Đông, cách thủ đô Hà Nội 150km. So với những bãi biển tại Miền Bắc, Cồn Vành đến thời điểm này vẫn giữ nguyên được nét hoang sơ sẵn có. Cồn Vành có đường bờ biển dài 6km, thảm rừng ngập mặn tươi tốt, nước biển trong vắt và thời tiết hài hòa.
Một góc thanh bình bãi biển Cồn Vành. (Ảnh: Đinh Hoàng Đức)
Bãi biển Cồn Vành được yêu thích bởi vẻ hoang sơ, vắng người và khung cảnh thanh bình đáng ngưỡng mộ. Là một trong những nhánh của khu vực lưu trữ sinh quyển châu thổ Sông Hồng, Cồn Vành được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho hệ sinh thái phong phú, đặc và thuần khiết. Đến đây, bạn như được lạc vào thế giới của những loài chim, cò biển quý hiếm đang được bảo tồn.
Vẻ đẹp bãi biển chưa được khai thác nhiều, vẫn giữ nguyên những giá trị thiên nhiên tươi đẹp. (Ảnh: Đinh Hoàng Đức)
Cồn Vành gây ấn tượng với du khách bởi những rặng phi lao xanh mượt bao quanh biển, điểm tô thêm vào đó là những thảm hoa muống tím đẹp mơ mộng. Bờ cát nơi đây tương đối mịn màng, sóng hài hòa cùng mực nước biển không sâu, lý tưởng cho hoạt động vui chơi, đắm mình trong làn nước trong xanh, mát lạnh.
Chạy dọc quanh bờ biển là những bãi bàn ghế gỗ, ô dù nhiều màu sắc, là nơi dừng chân nghỉ ngơi, ngả lưng thưởng thức không khí biển. Bên cạnh đó, cũng có những cửa hàng đồ lưu niệm làm bằng vỏ sò, vỏ ốc dành cho du khách mang về làm quà rất đa dạng.
Một điều đặc biệt rằng, đường đi đến biển Cồn Vành đẹp vô cùng. Con đường trải nhựa dài uốn lượn, hai bên đường là những rặng phi lao xanh mượt, hoà cùng bầu trời trong xanh, tất cả tạo nên một vẻ đẹp nên thơ đến lạ kỳ.
Con đường dẫn đến biển Cồn Vành đẹp thơ mộng. (Ảnh:Đinh Hoàng Đức)
Đây cũng là địa điểm check-in lý tưởng của các bạn trẻ. (Ảnh: Thanh Ngọc)
Đến tham quan biển Cồn Vành, du khách sẽ có những trải nghiệm vô cùng thú vị như: hòa mình vào dòng nước trong xanh, nghỉ ngơi trên những chiếc ghế tận hưởng không khí biển hay thưởng thức hải sản tại những nhà chòi bình dị ngay trên biển. Các hoạt động vui chơi thú vị cũng được khai thác tại đây như: di cà kheo, bóng chuyền bãi biển, cắm trại... Hay chiêm ngưỡng bình minh hoặc hoàng hôn trên biển cũng là một trong những trải nghiệm không thể thiếu.
Một điều đặc biệt lưu ý rằng, tại biển Cồn Vành, những nhà chòi bằng tre nứa được dựng ngay sát biển, là nơi nghỉ ngơi, cung cấp các bữa ăn ngon miệng, hải sản tươi và giá acả vô cùng phải chăng dành cho du khách.
Hoàng hôn trên biển Cồn Vành đẹp đắm say lòng người. (Ảnh: huylee)
Ngoài ra, khi tản bộ dọc bãi biển Cồn Vành theo hướng Nam, bạn còn được chiêm ngưỡng một ngọn hải đăng được xem như ánh mắt của người dân quanh vùng. Ngọn hải đăng Ba Lạt, nơi có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh Cồn Vành từ tầng 10 của ngọ Hải Đăng. Từ đỉnh ngọn hải đăng, khung cảnh miền quê biển Tiền Hải hiện rõ mồn một, từ những mái nhà yên bình ven biển, sự mênh mông của biển cả bao la hay phần nào cảm nhận cuộc sống của những người dân làng chài mộc mạc.
Niềm tự hào của người dân miền biển Cồn Vành. (Ảnh: thegioitruyenhinh)
Biển Cồn Vành là địa điểm dành cho những người yêu thích sự tĩnh lặng. (Ảnh: x_xoai)
Hướng dẫn di chuyển đến biển Cồn Vành
Di chuyển từ Hà Nội đến Thái Bình: Phương tiện di chuyển Cách Hà Nội 150km, cách di chuyển thuận tiện nhất đến biển Cồn Vành là xe khách hoặc xe máy.
Đối với xe khách: Bạn đến bến xe Giáp Bát, bến xe Nước Ngầm, mua vé tại quầy với giá 80.000 đồng. Một số tuyến xe chạy tuyến đường Hà Nội - Thái Bình - Tiền Hải có thể tham khảo như: Xe Phiệt học, xe Mạnh Hùng, xe Hoàng Hà.
Đối với xe máy: Từ Hà Nội, theo đường QL1, chạy thẳng tới Phủ Lý, rẽ trái đến QL21, tới QL10 thì chạy thẳng tới cầu Tân Đệ, về tới thành phố Thái Bình.
Di chuyển từ Thái Bình đến Cồn Vành: Từ Thái Bình đến Cồn Vành, bạn có thể bắt xe bus Hoàng Hà số 01 đến Tiền Hải, sau đó đi xe ôm hoặc taxi đến biển Cồn Vành. Nếu đi xe máy, bạn chạy tuyến QL39B sẽ đến nơi.
Nhiều bạn trẻ còn bày tỏ quan điểm rằng: Cồn Vành như một Nha Trang thu nhỏ, dịu dàng và trầm lặng, nằm khiêm nhường tận cuối Thái Bình. (Ảnh: Hà Trần)
Mách nhỏ những lưu ý khi đến Cồn Vành
Nếu đi từ Hà Nội, du khách nên chọn lịch trình vào hai ngày cuối tuần để có thời gian tận hưởng và khám phá chi tiết bãi biển Cồn Vành. Tuy nhiên, đối với những người không có thời gian, thì khám phá biển Cồn Vành trong một ngày cũng là trải nghiệm thú vị.
Ngay gần biển Cồn Vành, nhà thờ Bác Trạch cũng là một gơi ý dành cho bạn. Nếu đến Cồn Vành vào ngày chủ nhật, bạn nên ghé thăm nhà thờ Bác Trạch cầu bình an và vãn cảnh một trong những nhà thờ đẹp nhất Thái Bình này.
Đừng bỏ lỡ thưởng thức ẩm thực Thái Bình khi đến đây. Ngoài hải sản tươi ngon, Thái Bình còn nổi tiếng với rất nhiều những món ăn đi vào lòng người như: Bún cá Quỳnh Côi, ổi bo, bánh cáy Làng Nguyễn, ném Vị Thủy...
Còn chần chừ gì nữa mà không lên lịch khám phá ngay biển Cồn Vành trong những ngày cuối tuần sắp tới? (Ảnh: x_xoai)
1. Mở bài
- Vùng biển em định tả ở đâu? (miền Bắc, Trung hay miền Nam).
- Em đến vùng biển này vào dịp nào? (du lịch – hay có thể chọn tả vùng biển quê em).
2. Thân bài
* Tả bao quát:
- Bờ biển trải dài ngút tầm mắt.
- Một không gian mênh mông, ngút ngàn là nước, nước xanh trong…
* Tả chi tiết:
- Nước biển:
- Buổi sáng: Nước biển xanh lơ. Sóng nhẹ nhấp nhô, trườn lên bờ rồi tan dần xuống biển.
- Buổi trưa: Nước biển xanh thẳm. Sóng biển mạnh, đập vào bờ cát tung bọt trắng xoá.
- Buổi chiều: Nước biển có màu xanh dương đậm.
- Chiều tà: Nước biển đổi màu tím biếc. Sóng vỗ bờ rì rào, lan xa mãi.
- Ngoài khơi xa, biển nhấp nhô sóng lượn, những con tàu nhỏ xíu như dấu chấm. Đường chân trời tiếp nước mênh mông, xa tít.
- Bờ cát thoai thoải mịn màng như dải lụa.
- Rặng phi lao trên bờ cát vươn tay múa dịu dàng với gió. Gió rì rào lời thầm thì du dương dịu ngọt, đem lại không gian mát.
* Ích lợi của biển:
- Thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến du lịch, tham quan, đem lại nguồn thu đáng kể cho quốc gia.
- Là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng hải sản quan trọng.
3. Kết luận
- Nêu tình cảm, cảm xúc của em đối với biển.
- Những việc cần làm để bảo vệ bờ biển: Giữ gìn vệ sinh chung, không xả rác bừa bãi...
Em tham khảo các thông tin ở đây:
Chùa Ngô Xá, nơi lưu giữ bảo vật Quốc gia