Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1.
– Hạ lưu của sông Mê Công chảy trên lãnh thổ nước ta (trên 200 km) và chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu đổ ra biển bằng chín cửa nên có tên là Cửu Long (chín con rồng).
+ Ở Tây Nam Bộ: Hằng năm vào mùa lũ, nước các sông dâng cao làm ngập một diện tích lớn, mang theo lượng phù sa màu mỡ. Mùa khô thiếu nước ngọt.
+ Ở Đông Nam Bộ: Có nhiều hồ lớn như Dầu Tiếng, hồ Trị An, hàng loạt sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.
2.Nhờ có Biển Hồ ở Cam – pu – chia chứa nước vào mùa lũ nên nước sông Mê Công lên xuống điều hòa. Nước lũ dâng cao từ từ ( không lên nhanh & dữ dội như sông Hồng ), ít gây thiệt hại về nhà cửa & cuộc sống nên người dân không đắp đê ven sông để ngăn lũ. Mùa lũ là mùa người dân được lợi về đánh bắt cá, nước lũ ngập đồng bằng còn có tác dụng thau chua rửa mặn cho đất & làm cho đất thêm màu mỡ do được phủ thêm phù sa.
I – Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của văn hoá-lịch sử dân tộc. Xét về lãnh thổ vùng này có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hầu hết các ý kiến cho rằng vùng đồng bằng Bắc Bộ là khu vực của ba hệ thống sông lớn: sông Hồng, sống Thái Bình và sông Mã. Như vậy thì có thể xác định vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ bao gồm: Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vùng văn hoá có những điểm không đồng nhất với vùng hành chính, vùng quân sự… Việc xét Thanh-Nghệ-Tĩnh vào vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ là dựa trên những căn cứ về văn hoá và lịch sử.
Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây-Đông và Bắc-Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v…
Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác. Đồng bằng Bắc Bộ có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm .
Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt : mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình.
II. Đặc trưng văn hoá vùng Châu thổ Bắc bộ
Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này
1. Đặc trưng môi trường xã hội
Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng nhạt biển” – chữ dùng của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối.Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền.
Dù sao, phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là trồng lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng cây lúa, diện mạo cây trồng ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng vùng và khí hậu từng mùa.
Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng .v.v…
Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS. Nguyễn Từ Chi một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây “nhạt nhòa” – chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”, “bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ.
2. Đặc trưng văn hoá vật chất
– Văn hoá cư trú (nhà ở). Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên một diện mạo, đồng bằng như ngày nay, bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc Bộ và các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên này. Nhà ở của cư dân Việt Bắc Bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo phát triển. PGS, PTS. Nguyễn Khắc Tụng đã thống kê được 10 loại nhà vì kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kĩ thuật và sử dụng các vật liệu bền như xi măng, sắt thép. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan.
– Văn hoá ẩm thực (ăn – uống). Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm.
– Văn hoá trang phục. Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều.
– Di sản vật thể khác. Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v…
3. Đặc trưng văn hoá tinh thần
Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.
Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng,mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn truyện trạng ở Bắc Bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v..v.. sử dụng các hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Có những thể loại chỉ ở Bắc Bộ mới tồn tại, kiểu như thần thoại. Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối v.v… Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề v.v…, có mặt trên hầu khắp các làng quê Bắc Bộ. Các tín ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại trong lễ Hội – một ra thành lễ hội mùa xuân, một ra thành lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, khởi nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của cư dân nông nghiệp, nói khác đi là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã lắng đọng ở đây những lớp văn hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra gương mặt ban đầu của lễ – hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ hội vẫn gợi lại các nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ Lúa, cầu mưa, thờ thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà phủ, múa các vật biểu trưng âm vật, dương vật v.v… Chính vì vậy mà lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Với cư dân ở làng quê Việt Bắc Bộ, lễ hội là môi trường cộng cảm văn hóa, “công mệnh” – chữ dùng của PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh – về mặt tâm linh. Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh Gia Khánh còn là “nơi phát sinh nền văn hóa bác học” . Sự phát triển của giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ. Thời tự chủ, Thăng Long với vai trò là một kinh đô cũng đảm nhận vị trí một trung tâm giáo dục. Năm 1078, Văn Miếu đã xuất hiện, năm 1076 đã có Quốc Tử Giám, chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài v.v.. đã tạo ra cho xứ Bắc một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có nhiều danh nhân văn hóa tầm cỡ trong nước, ngoài nước. GS. Đinh Gia Khánh nhận xét : “Trong thời kì Đại Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỉ lệ dân số thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác. Trong lịch sử 850 năm (l065-1915) khoa cử dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở vùng đồng bằng miền Bắc”. Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ sở giáo dục, khoa học, thu hút các trí thức mọi vùng. ở thời hiện đại, PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh nhận xét : “Với đội ngũ trí thức mới, không những ở đây là nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học (90% các viện nghiên cứu và 64% các trường đại học), mà đội ngũ trí thức cũng tập trung đông đảo nhất, chiếm 57% tổng số trí thức cả nước.!”
Lễ hội đồng bằng Bắc bộ
Chính sự phát triển của giáo dục ở đây tạo ra sự phát triển của văn hóa bác học, bởi chủ thể sáng tạo nền văn hóa bác học này chính là đội ngũ trí thức được sinh ra từ nền giáo dục ấy Đội ngũ này, tiếp nhận vốn văn hóa dân gian, vốn văn hóa bác học Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây, tạo ra dòng văn hóa bác học. Xin đơn cử, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chính là sản phẩm được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí thức, thể hiện rõ đặc điểm này. nói đến văn hóa bác học, không thể không kể đến văn học nghệ thuật. Những tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v… đều trưởng thành và gắn bó với vùng văn hóa này.
Hơn nữa, nói tới vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, là nói tới một vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú hơn cả. Thực ra, quá trình tiếp biến văn hóa là đặc điểm chung của văn hóa Việt Nam, hay nói như trây là sự không chối từ, nhưng ở châu thổ Bắc Bộ, nhận xét của GS. Đinh Gia Khánh là nhận xét đúng.
Thời tiền sử và sơ sử, thời tự chủ, việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ trên địa bàn Bắc Bộ, có những nét riêng do vị thế địa – văn hóa, địa chính trị của nó quyết định. Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây đậm nét hơn cả. Có thể đơn cử sự tiếp nhận Phật giáo của cư dân Việt Bắc Bộ. Là một tôn giáo sinh ra ở Ấn Độ, vào Bắc Bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản địa hóa thành Phật giáo dân gian. Sự phát triển của Phật giáo ở Bắc Bộ, vì thế sẽ khác với Phật giáo ở Nam Bộ.
Đồng thời với đặc điểm Bắc Bộ là cội nguồn văn hóa của các vùng Trung Bộ, Nam Bộ, và từ vùng đất cội nguồn này, văn hóa Việt phát triển ở mọi vùng khác. Vai trò “hướng đạo” của vùng văn hóa Bắc Bộ cũng rất rõ, khi đặt trong tơng quan với các vùng văn hóa khác.
Tóm lại, vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đống thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng long – Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn hóa này vẫn có những tiềm năng nhất định.
xin lỗi bạn, mình không biết trả lời thế nào,mong bạn đừng dis.
Vì hồi lớp 4 , trong thời kì đó mình đang ôn thi IOE Cấp Tỉnh nên không học bài này nha
Mk cũng không biết nhiều về Địa Lí cho lắm nhưng mk chắc chắn mk làm đúng!
+)Đồng bằng Bắc Bộ có dạng hình tam giác.
+)Là châu thổ lớn thứ hai của đất nước ta.
I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.
ở chỗ này chỉ đc hỏi toán và văn thôi mừ!!!!????
Thế là sai đó nha
k cho mình nhé :
1. TÌNH YÊU
Hoa Bưởi - Ong vàng
Em là bông hoa Bưởi
Anh là con Ong vàng
Hoa Bưởi trắng tinh khôi
Có nét đẹp dịu dàng
Hương thơm thật nhẹ nhàng
Ong vàng yêu hoa bưởi
Nó nguyện suốt cuộc đời
Chỉ yêu hoa bưởi thôi
Dù bay đến muôn nơi
Kiếm ăn xa đến mấy
Mà thấy hương hoa bưởi
Là vội vã bay về
Để được bên hoa Bưởi
Có đôi lần Ong vàng
Kiếm ăn ở nơi xa
Và những lúc mệt mỏi
Đã định ngả lòng mình
Với nàng Hồng kiêu sa
Sắc đẹp quá lộng lẫy
Nhưng bay đến bên nàng
Thấy mùi hương thơm lạ
Ong vàng liền nghĩ ra
Hoa Bưởi và lời thề
Nó lại tỉnh cơn mê
Hoa Bưởi thật xinh đẹp
Nên Ong vàng rất lo
Những khi xa hoa Bưởi
Không thường xuyên ở nhà
Lại sợ Ong Vò vẽ
Cứ lượn lờ ghẹo trêu
Rồi lại sợ hoa Bưởi
Ở nhà một mình buồn
Có khi lại mềm lòng
Bị Vò vẽ tấn công
Chính vì vậy Ong vàng
Mỗi lần bên hoa Bưởi
Nó yêu thương chiều chuộng
Mong muốn cho hoa Bưởi
Lúc nào cũng xinh tươi
Tỏa hương thơm mát dịu
Nó bay, hát vo ve
Bên cạnh hoa Bưởi mãi
Chẳng muốn xa rời nàng
Ong vàng đâu có biết
Hoa Bưởi thật dịu dàng
Ngây thơ và trong trắng
Nhưng hoa chỉ mở lòng
Với chàng Ong vàng thôi
Ở bên cạnh Ong vàng
Hoa Bưởi luôn nồng nàn
Mang lại cho Ong vàng
Niềm vui và hạnh phúc
Có bao nhiêu mật ngọt
Hoa Bưởi cho Ong vàng
Vì hoa Bưởi luôn biết
Ong vàng thích mật ngọt
Do chính nàng làm ra
Hoa Bưởi muốn Ong vàng
Dù có đi đâu xa
Vẫn nhớ về hoa Bưởi
Khi Ong vàng đi xa
Hoa Bưởi sống khép lại
Tạo thêm nhiều mật ngọt
Chờ đợi Ong vàng về
Hoa Bưởi mong muốn rằng
Ong vàng luôn bên cạnh
Với hoa Bưởi mỗi ngày
Để hoa Bưởi chăm sóc
Cho Ong vàng tốt hơn
Mong Ong vàng yêu thương
Và che chở cho mình
Muốn Ong vàng chỉ là
Của riêng hoa Bưởi thôi.
(Thơ Lam Le)
2. THỨC DẬY TÌNH YÊU....
Tình yêu ơi Em đang ở phương nào
Nhớ đến em mà xôn xao trong dạ
Ta hỏi em sao vẫn còn thư thả
Ước mộng này thì đã có từ lâu !
Tình yêu ơi em đang ở nơi đâu
Mà anh tìm nói một câu chưa thấy
Ta hỏi em. Em đang ở đâu đấy
Để cho ta tìm mấy phương trời rồi !
Tình yêu ơi sao không thấy trả lời
Để cho ai vẫn còn đời cô lẻ
Đã biết rằng yêu không thể san sẻ
Thế cho nên vẫn là kẻ đơn côi !
Tình yêu ơi Em có hiểu lòng tôi
Sao trái tim chưa bồi hồi xao xuyến
Em ở đâu để cho Anh quyến luyến
Ta cùng nhau bàn tính chuyện trăm năm !!
(Thơ Phạm Hồng Đức )
3. RƯỢU HỒNG
Lần đầu gặp gỡ nỗi khát khao.
Bởi lòng quân tử ngại lối vào.
Nhặt cánh hoa buồn sầu thương nhớ.
Thầm mơ Tình thắm được nàng trao.
Từng chiều qua ngõ nàng hoa tím.
Mong gặp người xưa nỗi nghẹn ngào.
Đã trót nhưng lòng chưa dám ngỏ.
Mơ ngày hoa cưới rượu hồng đào.
(Thơ Sao Mai)
4. NGÀY XƯA EM CÒN NGÂY THƠ
Từng ôm ảo vọng những mong chờ
Để rồi những tình là hư áo
Nên giờ cuộc đời vẫn xác xơ
Ngày xưa cũng xinh đẹp như ai
Cũng là thơm ngát như hoa lài
Đâu biết tình yêu là hư ảo
Nên thân phận mãi cứ trúc mai
Ngày xưa yêu ai cũng chung tình
Tình yêu ngày ấy hoa Bướm xinh
Nghĩ rằng cuộc đời đầy thơ mộng
Nên giờ mới lỡ giấc mơ tình
Ngày xưa chưa nghĩ như bây giờ
Cuộc đời thủa ấy rất ngây thơ
Nên tình héo úa theo ngày tháng
Để đến bây giờ ôm giấc mơ..
(Thơ Đức Hạnh)
5. GIẤC MƠ TÌNH YÊU
Trắng đêm tưởng bóng thương hình
Bẽ bàng tỉnh giấc riêng mình đơn côi
Sương tan mộng cũng xa rồi
Tìm ai ngơ ngác giữa đời mênh mông
Bình minh rạng rỡ ánh hồng
Tim loang bóng tối cõi lòng giá băng
Hạ đi thu đến vội vàng
Hồn thơ sầu muộn đa đoan một đời
Vô thường như chiếc lá rơi
Nhân sinh chìm nổi giữa đời bão giông
Nay còn mai hóa hư không
Bèo mây dâu biển giữa dòng sông mê
Tìm ai cho trọn ước thề
Ngàn năm sỏi đá lối về còn nhau
Sông Ngân đợi được mùa ngâu
Tình trần mãn kiếp đượm màu thủy chung
(Thơ Phan Thị Ngọc Ánh)
6. TÌNH MUỘN
Người thương hỡi gieo niềm vương nỗi nhớ
Giữa khoảnh trời xa vợi cách non khơi
Hồn tha thiết đêm trường nghe buốt nhói
Cháy cõi lòng hiu hắt nỗi bơ vơ
Tình chớm nở để sầu đau ứa lệ
Đến muộn màng cho đôi ngã buồn giăng
Anh vẫn biết cuộc tình không lối thoát
Nửa cuộc đời sao đắp mộng nên thơ
Làn gió thoảng sương lùa đau tình lỡ
Đắng môi mềm tan nát cả con tim
Yêu say đắm để buồn trong nghịch cảnh
Bến ly đò sông nước rẽ duyên tơ
Lòng thầm ước xin đừng chia tan vỡ
Cho cuộc tình khơi sống mãi bên nhau
Từ sâu thẳm tâm hồn anh níu gọi
Dẫu muộn màng xin thắm vẹn niềm mơ...
(Thơ Lợi Nguyễn)
7. TÌNH EM
Tình em như sợi tơ
Cột anh rất tình cờ
Vào một chiều nắng nhạt
Nghìn xưa đến bây giờ...
Tình em sương cỏ hoa
Nắng hong mềm phôi pha
Ngỡ không còn nhau nữa
Thương yêu chẳng phai nhoà
Tình em như cỏ may
Vướng chân chiều mơ phai
Cả đời thơm hương cỏ
Nên nhớ nhung tháng ngày
Tình em cánh gió thu
Dạt dào lời thơ ru
Trăng hoa bên thềm mộng
Con tim mãi tình tù
Tình em một đoá hồng
Cài lên môi mùa đông
Trăm năm còn nhớ mãi
Dù xa cách nghìn trùng!
(thơ Nguyễn Thanh Vy)
8. SAY TÌNH, SAY CẢNH
Say rừng lá hát giữa chiều rơi...
Say gió, mây ngàn cuộn lã lơi
Say bến tình thơm hương tóc gội
Say thuyền đắm mộng thuở xuân hồi
***
Say trăng đáy nước! tình vời vợi!
Say nguyệt đầu non đẹp khoảng trời
Say sóng ru thuyền xao xuyến đợi!
Say bờ cát trắng mộng đầy vơi...
***
Say mùa Cúc nở vàng thu tới
Say nước gương trong bóng hạ lơi
Say biển triều dâng triền sóng tới
Say vùng gió thoảng khoả làn môi...
***
Say em lạc cảnh bên đời mới!
Say má hồng tươi, đẹp tuyệt vời
Say nụ môi hôn, mê đắm đuối
Say tình mỹ nữ, mộng duyên ngời...
( Thơ Phuc Han Mai )
B. Thơ Tình Buồn
1. TÌNH LỠ
Thắm thoát mùa yêu đã qua
Ở đâu đây nỗi nhớ (anh) mơ về em
Tình còn đó người ở đâu
Xin cho nhắn gởi đôi câu êm đềm
Thắm thoát hai mùa nhớ em
Hạ xa nhau trót lở biệt ly rồi
Tình khúc Biển Xanh bồi hồi
Đến người bé nhỏ thuở yêu vừa nhớ
Thắm thoát mùa hoa phượng nở
Lối thu ngỡ ngàng,,chiếc lá bay xa
Chỉ còn động lại hương xưa
Mà ngỡ như,tình yêu thắm tươi mãi
Thắm thoát mùa yêu bỏ lại
Hương bay phản phất,,gió heo may về
Giá buốt hồn thơ môi kề
Giải thoát cho nhau...mối tình (nụ hôn)sưởi ấm.
(Thơ: Tình Vương Mang)
2. GÌN GIỮ
Tình đã bay xa giờ em mới hiểu
Tình ta tan vỡ vì thiếu ái ân
Để giữ tình yêu đôi lúc phải cần
Ái ân nồng thắm tăng phần yêu dấu
Em cố giữ gìn,nội tâm phấn đấu
Giữ tiết trinh,tránh làm xấu khi yêu
Em đã lỗi thời suy nghĩ một chiều
Tình yêu đôi lứa có nhiều thay đổi
Yêu nhau khá lâu ít ai nhịn nổi
Hàng ngày quấn quýt mỗi tối môi hôn
Đàn ông bản tánh chiếm đoạt là thường
Đàn ông đều muốn lên giường gấp rút
Em từ chối đã khiến anh bức xúc
Tình yêu đôi ta mỗi lúc một xa
Chuyện phải đến,anh quên hết mặn mà
Anh đã nói lời chia xa mãi mãi !
Anh ơi,hiểu cho thân là con con gái
Em muốn cho anh nhưng phải cưới xin
Còn đạo lý,còn lễ nghĩa gia đình
Em thà đớn đau nhìn cuộc tình tan vỡ
Vì chút dục tình sao anh nỡ ...xa...em.!!!
(Thơ Đoàn Quý Phi)
3. TÌNH NGHÈO
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Chúng mình khác họ người dưng
Một lần gặp gỡ như từng đã quen
Bởi anh thân phận nghèo hèn
Tháng năm vất vả da đen chai sần
Bùn lầy quến chặt bàn chân
Đồng trưa ruộng sớm đỡ đần mẹ cha
Còn em rẫy bắp nương cà
Mồ hôi từng giọt mặn mà thấm lưng
Kiếp nghèo chôn chặt tuổi xuân
Phấn son nhung lụa chưa từng dám mơ
Chúng mình một mái tranh sơ
Thầm câu ước hẹn đợi chờ mai sau
Mong ngày trầu thắm duyên cau
Đắp xây hạnh phúc bên nhau trọn đời
Ngọt ngào anh gọi mình ơi
Em cười bẽn lẽn mắt ngời ước mơ
Tình nghèo vẫn đẹp như thơ
Bao nhiêu năm tháng đợi chờ là đây
Đường quê hoa nắng ngập đầy
Đón nàng dâu mới xuân này thêm vui.
(Thơ Giáng Tiên)
4. GIỌT SẦU
Giọt lệ sầu đưa tiễn bước người đi
Bờ môi đắng từ ly lời chưa cạn
Mùa ân ái trong bão giông dày dạn
Ngược lối buồn làm bạn với đơn côi
Thuyền muôn trùng trên sóng nước xa xôi
Biển thăm thẳm ngăn đôi trời thương nhớ
Đàn lạc phím đoản khúc tình dang dở
Ta với người cách trở kể từ đây
Gió của trời đâu chỉ của riêng mây
Nên nuối tiếc đong đầy cơn mưa đổ
Nhân ảnh mờ bức tranh đời hoen ố
Một lần yêu đau khổ sắt se lòng
Tiễn đưa người trong nỗi nhớ mênh mông
Gương vụn vỡ hư không hình bóng cũ
Chỉ còn lại chút hương thừa ấp ủ
Hỏi mai này có đủ sưởi lòng nhau
(Thơ Phan Thị Ngọc Ánh)
5. DỖI HỜN
Mấy hôm nay trời dường như giận dỗi
Giống trách hờn anh quá đỗi vắng xa
Không nhớ nhung,cũng chẳng thấy mặn mà
Chắc bỏ em đi theo sau người lạ
Em nhớ anh như mùa thu trút lá
Thương anh nhiều sao thương quá đi thôi
Đừng để em cứ lặng lẽ đơn côi
Anh có hiểu nỗi niềm xa xôi đó
Dấu yêu ơi! Đừng xem tình là gió
Em lại buồn suy nghĩ ngó mông lung
Hãy bên nhau ta đi đến tận cùng
Nguyện giữ mãi mối tình chung tha thiết ..
Nỗi nhớ anh luôn cồn cào da diết
Mong mỗi ngày ta xiết chặt bàn tay
Giữ tình yêu nồng thắm đượm đong đầy
Bên nhau mãi cùng dựng xây hạnh phúc..
Tình yêu mình dù như sông uốn khúc
Nhưng vỗ về trong đục chẳng nào ngơi
Luôn yêu thương say đắm đến trọn đời
Anh và em không xa rời nửa bước....!!!
(Thơ Vũ Thắm)
6. TÌNH BUỒN
Dẫu vẫn biết cuộc đời này là thế
Yêu một người nhưng chẳng thể đến bên
Để đêm về nỗi nhớ cứ dâng lên
Nhạt môi mềm lệ vương sầu mi mắt
Dẫu vẫn biết tình yêu là chân thật
Nhưng cuộc đời thường lắm những đắng cay
Phận số ơi sao lại nở đọa đày
Duyên đây rồi nợ tìm hoài chẳng thấy
Dẫu vẫn biết yêu người nhiều biết mấy
Thì cũng chỉ là thương nhớ đấy thôi
Khi nhớ người nước mắt mặn bờ môi
Mình em thôi héo mòn trong đêm tối
Dẫu vẫn biết tình yêu ko có lỗi
Mà sao ko tìm được lối ra
Để cho em nước mắt nhạt nhoà
Và khóc thương chuyện tình yêu dang dở
(Thơ Thi My)
7. HỎI NGƯỜI CÒN NHỚ TÊN NHAU
Có lẻ tình mình không được trọn vẹn
Thôi đành đưa vào kỷ niệm khắc ghi
Chuyện yêu đương xin người đừng cố chấp
Vì khoảng cách,,bởi dòng ngăn tuyệt đối
Trong nỗi nhớ cũng như cô huyền thoại
Chỉ là lưu luyến đắp mộ cuộc tình
Rồi lãng quên xóa tên một dấu ấn
Để thời gian chết lặng lối thu tàn
Cứ ngỡ rằng,,mùa sang tình lãng mạn
Mà đâu ngờ,,bẽ bàng trong trái ngang
Nót trái đắng,,trôi vào lòng cô đơn
In mảnh ghép vụn vỡ như đùa giỡn
Chỉ mình ta mặt lệ thắm giọt hờn
Tim tan nát giữa dòng châu tuôn đổ
Bóng hình ơi ! người hỡi có lẽ nào !
Quên đi tất cả kỷ niệm êm đềm
Tháng ngày bên nhau,,tình anh trao em
Hỏi người còn nhớ ân tình thuở ấy...!!!
(Thơ Tình Vương Mang)
8. TÌNH MUỘN
Em cất giữ một nỗi niềm sâu thẳm
Giấu trong lòng một trái tim yêu thương
Bao năm tháng sống lẻ loi dặm đường
Ngày anh đến,bầu trời xanh vô tận
Những bông hoa với ngọt ngào hương phấn
Dâng cho đời bao vị ngọt tình yêu
Mình cùng nhau thỏa khao khát sớm chiều
Niềm hạnh phúc từ những điều rất nhỏ
Phải không anh trời đã ngừng trở gió
Để dòng sông êm ả dệt nắng vàng
Ta bên nhau phơi phới giữa thu sang
Hai trái tim hòa chung cùng một nhịp
Em đã biết bây giờ em đã biết
Hai chúng mình là một nửa của nhau
Thời gian trôi vĩnh viễn chẳng úa màu
Bởi tình ta sẽ mãi là bất diệt!!!
(Thơ Vũ Thắm)
9. KỶ NIỆM BUỒN
Có ai hiểu nổi nỗi đắng cay
Người ấy đi yêu kẻ khác rồi
Sao tôi biết vậy còn theo đuổi
Thầm thương trộm nhớ mãi không thôi
Tôi đã biết em vẫn hững hờ
Cười hoa cợt gió lại ghẹo mưa
Đâu biết lòng tôi bao cay đắng
Gửi sầu theo gió rụng theo thu
Người ấy tặng ai bao nụ cười
Những lời âu yếm xé lòng tôi
Thế mới hiểu yêu là như vậy
Tim phập phồng vị ngọt tình yêu
Giờ có lẽ buồn thêm cay đắng
Theo ta đi trong trắng cuộc đời
Sao em nỡ quên anh trong chốc lát
Để tim anh tan nát cõi lòng
Sao em nói yêu anh say đắm
Để mình anh ướt lệ đêm trăng
Ai ơi tình yêu là thế đấy
Đau xót tình tôi tuổi thiếu thời
(Thơ Lê Nhưng)
10. TÌNH EM TRAO ANH
Em yêu anh bằng trái tim nóng bỏng
Chẳng đổi thay dù sóng hóa thành dông
Mãi sắc son chờ đợi tiếng tơ hồng
Năm và tháng tình nồng càng thắm thiết
Em yêu anh thật nhiều anh có biết
Mỗi đêm về da diết chữ nhớ thương
Tình trăm năm hoa chưa kết đỏ đường
Yêu lắm đó thiên trường nào thay đổi
Em yêu anh chân trời chưa mở lối
Gian nan nào gió thổi rét vẫn yêu
Chẳng nhạt phai tình ấy mãi là điều
Mơ và ước sớm chiều ta chung lối
Em yêu anh trái tim càng bối rối
Giữa phồn hoa đô hội biết làm sao
Gái nhà quê chân lấm trắng thế nào
Yêu chỉ biết tim trao người chân thật
Em yêu anh con người hơn vật chất
Mọi hờn ghen em cất tận đáy tim
Chẳng để anh nhìn thấy hay kiếm tìm
Tình chỉ đẹp khi hoa sim kết trái
Em yêu anh câu minh sơn thệ hải
Là thước đo chẳng phải nghĩ suy nhiều
Hãy chở che và giữ vững tình yêu
Để muôn kiếp không lạc diều anh nhé
(Thơ Duy Hiển)
Thơ tình vui
C. Thơ Tình Lãng Mạn
1. TÌNH CẢM VỢ CHỒNG
Môi hôn chan chứa ta trao
Yêu thương thắm thiết dạt dào người ơi
Trải bao năm tháng tuyệt vời
Nghĩa tình chồng vợ muôn đời sắc son
Bên nhau hạnh phúc vẹn tròn
Vòng tay ấm áp ... môi hôn đậm tình
Bên nhau dệt mộng thắm xinh
Cho đời thơm ngát lung linh đất trời
Em bên anh mãi muôn đời
Tháng ngày bền chặt rộn lời ái ân
Tình say muôn thuở ngọt lành
Êm đềm chung thủy yến oanh nồng nàn
Yêu thương vút tận mây ngàn
Đôi bờ môi thắm chứa chan cõi lòng...
Hồn lâng say chốn phiêu bồng
Hương tình nồng đượm ...dập dồn đôi tim...
(Thơ Giáng Tiên)
2. TÌNH EM TRAO ANH
Em yêu anh bằng trái tim nóng bỏng
Chẳng đổi thay dù sóng hóa thành dông
Mãi sắc son chờ đợi tiếng tơ hồng
Năm và tháng tình nồng càng thắm thiết
Em yêu anh thật nhiều anh có biết
Mỗi đêm về da diết chữ nhớ thương
Tình trăm năm hoa chưa kết đỏ đường
Yêu lắm đó thiên trường nào thay đổi
Em yêu anh chân trời chưa mở lối
Gian nan nào gió thổi rét vẫn yêu
Chẳng nhạt phai tình ấy mãi là điều
Mơ và ước sớm chiều ta chung lối
Em yêu anh trái tim càng bối rối
Giữa phồn hoa đô hội biết làm sao
Gái nhà quê chân lấm trắng thế nào
Yêu chỉ biết tim trao người chân thật
Em yêu anh con người hơn vật chất
Mọi hờn ghen em cất tận đáy tim
Chẳng để anh nhìn thấy hay kiếm tìm
Tình chỉ đẹp khi hoa sim kết trái
Em yêu anh câu minh sơn thệ hải
Là thước đo chẳng phải nghĩ suy nhiều
Hãy chở che và giữ vững tình yêu
Để muôn kiếp không lạc diều anh nhé
(Thơ Duy Hiển)
3. SẮC THẮM
NON xa sắc thắm mây trời.
XANH trong gió hát cảnh đời thiết tha.
ĐÁY hồ đàn cá tung tăng.
NƯỚC trong biên biếc ru tình nhớ ai.
IN hình nắng chiếu lung linh.
TRỜI tây ráng đỏ chạnh niềm ước mơ.
CÀNH cao chim hót nên thơ.
LÊ trong gió thoảng đong đưa chiều buồn.
TRẮNG yêu nhuộm cả tâm hồn.
ĐIỂM thêm màu nắng vấn vương vào lòng.
MỘT nàng hoa dại bên đường.
VÀI hàng lý nở mùi hương dịu dàng.
BÔNG thương dưới ánh chiều vàng.
HOA yêu nhung nhớ cho chàng bâng khuâng.
NON XANH ĐÁY NƯƠC IN TRỜI.
CÀNH LÊ TRẮNG ĐIỂM MỘT VÀI BÔNG HOA.
(Thơ Sao Mai)
4. TÌNH HỌC TRÒ
Năm đó nhà trường mở hội thì
Hai đứa yêu nhau chẳng nói gì
Hoa tím sân trường rơi vài cánh
Hai đứa nhìn nhau bước vào thi
Bài thì hôm đó bài thơ yêu
Thương thương nhớ Nhớ Một buổi chiều
Lá vàng rơi xuống hồn thì sỹ
Một khoảng thu buồn ngát trời yêu
Giám thị nhìn em giám thi cười
Em nhìn cô bé thấy cô vui
Bài thơ hôm đó vương tình mộng
Tươi thắm hồn ai giấc mơ đời
Hôm ấy tình thơ với tình đời
Yêu người trong mộng tuổi hai mươi
Mắt cô hàng xóm cô hàng xóm
Mơ mộng gì cô cô mỉm cười
Bài thơ hôm đó được điểm mười
Bài thơ còn mãi đọng trong tôi
Nụ cười tươi thắm cô hàng xóm
Hai đứa yêu nhau chẳng nửa lời
(Thơ Đức Hạnh)
5. TÌNH ANH MÙA NƯỚC NỔI
Quê Em... sông nước Cần Thơ
Bốn mùa nước nổi, đợi chờ đò thương
Ô Môn... bên lỡ vấn vương...
Bên bồi thương nhớ...đậm tình quê Em.
Ninh Kiều... bến mộng êm đềm
Chiều vương nhạt nắng, dạ mềm nhớ ai
Cái Răng...Anh đến u hoài
Trên sông chợ nổi...rộn ràng thật vui.
Hạ về... Anh đến... Cần Thơ..
Tìm người em gái, đợi chờ người thương
Tây Đô...có phải nợ duyên?
Một lần Anh đến... nhớ thuyền Phương Nam.
Anh về...nhớ mãi sông đêm...
Nhớ người Em gái... bên bờ sông thơ
Thương Anh... Em ráng đợi chờ
Cần Thơ nước nổi...năm sau anh về
Miền Tây... sông nước...tràn trề
Thắm tình giai ngẫu... lời thề... em trao
Trăm năm...vẹn nghĩa dạt dào...
Tình Em mãi mãi...ngọt ngào trong Anh.
(Thơ Nguyễn Thanh Tâm)
6. TÌNH YÊU
Tình yêu như ly rượu nồng,
Uống vào để má thêm hồng, em ơi.
Tình yêu, như nắng mặt trời,
Giúp cây nảy lộc, đâm chồi,nở hoa.
Tình yêu, không có tuổi già.
Tình yêu mãi mãi sẽ là thanh xuân.
Yêu nhau, trao gửi ái ân,
Tình yêu mang đến mùa xuân cho đời.
Tình yêu, như nước đầy vơi
Yêu nhau đủ vị, đủ mùi say sưa.
Tình yêu sung chát, chanh chua
ơt cay, mía ngọt, có vừa lòng nhau?
Yêu nhau muôn sắc, muôn màu
mấy ai quên được tình đầu, mình ơi.
Chỉ là chuyện của hai người.
Mà sao bàn mãi, muôn đời không xong...
(Thơ NP)
7. TÌNH ĐẦU VÀ TÌNH CUỐI
Tôi đang yêu ,một mối tình bình dị
Không cần nhắn tin thủ thỉ suốt ngày
Tôi chỉ cần đơn giản tay trong tay
Tung tăng dạo phố những ngày nắng ấm
Người tôi yêu là một người đằm thắm
Không tự cao tự đại lắm khoe khoang
Tôi không màng người tôi yêu xuềnh xoàng
Tôi không cần vào nhà hàng sang trọng
Quán vỉa hè dưới tàng cây rợp bóng
Hai tâm hồn cùng hâm nóng đôi tim
Tôi chỉ cần những lời lẻ diệu êm
Sẻ chia an ủi những đêm trăn trở
Tôi sẽ cùng người tôi yêu đối phó
Khó khăn vất vả sóng gió cuộc đời
Tôi yêu người đã chân thật yêu tôi
Người không chạy theo thói đời hư hỏng
Tình của tôi đơn sơ nhưng nóng bỏng
Hai tâm hồn luôn trông ngóng về nhau
Tôi yêu một người có trước có sau
Người yêu tôi đấy,TÌNH ĐẦU VÀ TÌNH CUỐI.!!!
(Thơ Đoàn Quý Phi)
D. Thơ Tình Ngắn
1. NIỀM MONG
Nắng hạ tan chiều ở bến sông
Làn mây vẫn trải sắc tươi hồng
Vườn đào ủ nghĩa tâm bền có
Ngõ trúc ươm tình sức dẻo không ?
Hẹn biển duyên này luôn giữ chặt
Thề non phận ấy mãi ôm gồng
Hai đầu nỗi nhớ bao mùa nguyện
Hạnh phúc êm đềm thoả ngóng trông
(Thơ Sao Mai)
2. GÓC PHỐ
Biết tìm đâu trong dòng người hối hả
Một trái tim biết san sẽ yêu thương
Một tình yêu được gọi là muôn thuở
Đến bao giờ tìm được nửa của em
(Thơ Thi My)
3. TÌNH ĐẦU
Tình đầu đẹp lắm phải không Anh
Chớm nỡ yêu thương kết mộng thành
Nguyện mãi chung tình đời vất vã
Đôi mình cố gắng sẽ thành danh
Sang hèn sự thể nơi duyên số
Quyết chí đồng lòng đẹp tựa tranh
Chẳng ngại gian nan trời bão tố
Duyên tình đẹp mãi vẫn luôn dành
(Thơ Cô Út)
4. TÌNH YÊU
Có ai đùa giỡn được tình yêu?
Nó đến rồi đi chẳng nói nhiều
Lấy nửa hồn ta đem đi mất
Rồi đem bán lại chẳng bao nhiêu
Từ đó hồn ta bỗng dại khờ
Đêm về chỉ mộng mị vu vơ
Hỏi gió hỏi mây còn thương xót
Thì cho ta nhắn nó một điều
Nói rằng nửa mảnh hồn còn lại
Đem đi bán nốt để mà tiêu...
(Thơ Anh Tuấn)
5. TÌNH THU
Chân bước hồn phiêu... dưới giọt Thu
Buồn dâng chiều tím... phủ mây mù
Lơ đãng lá vàng... rơi trước gió
Man mác trong lòng... nhẹ tiếng ru...
Tĩnh lặng hồ êm... gió vi vu
Thấp thoáng làng quê... dưới dương mù
Khao khát tình nồng... chưa bén đủ
Lạc loài cô lẻ... thiếu tình Thu!...
(Tho Tho Thi)
6. NỤ TÌNH TÀN PHAI
Nụ tình em đã trao ai.
Cho người xưa cũ tiếc hoài ngẫn ngơ.
Hôm qua còn đó vẫn chờ.
Mà nay bóng nhạn biệt mờ phương xa.
Nụ tình mới chớm nở hoa.
Người ơi sao nỡ nhạt nhòa quá nhanh.
Nụ tình sải cánh mong manh.
Để rồi gió xé tan tành còn đâu.
Đời người sao lắm mưa ngâu.
Phong ba bão tố ngập đầu chữ yêu.
Nụ tình như gió phiêu diêu.
Qua miền tăm tối tiêu điều người ơi.
Nụ tình như cánh lá rơi.
Theo mùa Thu chết để rồi tiếc thương...
(Thơ Vân Thiên Long)
http://thuthuat.taimienphi.vn/nhung-bai-tho-tinh-hay-nhat-36665n.aspx
Trên đây là những bài thơ tình hay nhất, các bạn có thể tham khảo và đón đọc để cảm nhận về tình yêu ngọt ngào, lãng mạn, hạnh phúc cũng như tình yêu buồn. Nếu các bạn thấy hay, nhớ lưu lại để đọc và chia sẻ để mọi người cùng đọc nhé.
Tác giả: Nguyễn Cảnh Nam (4.0★- 3 đánh giá) ĐG của bạn?
Bài viết liên quan
- Thơ chế về tình yêu hay, hài hước
- Thơ hay về Mùa Hè
- Những bài thơ hay về cha, bố
- Những bài thơ tứ tuyệt hay nhất
- Những bài thơ hay về Tình Bạn
Bài thơ tình
, bai tho tinh, bài thơ tình hay nhất,Tuyển tập thơ hay
Tuyển tập những bài thơ hayTài liệu này là một bộ tài liệu tổng hợp nhiều bài thơ hay của các nhà thơ nổi tiếng trong nước và thế giới như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyễn Nhật Ánh, Puskin... với câu từ tinh tế nhiều ý nghĩa, bạn sẽ có c ...
- Tuyển tập thơ về các loại động vật cho bé mầm nonNhững bài thơ về động vật cho bé mầm non
- Tuyển tập thơ về chủ đề nghề nghiệp cho bé mầm nonNhững bài thơ chủ đề nghề nghiệp cho bé mầm non
- Tuyển tập thơ về chủ đề gia đình cho bé mầm nonThơ về gia đình cho bé
- Tuyển tập thơ chủ đề thực vật cho bé mầm nonNhững bài thơ hay về các loài cây cho bé mầm non
- Bài thơ tả bà ngoại viết bằng tiếq việtTuyển tập thơ hay tặng bà ngoại
ĐỌC NHIỀU
- Lời chúc giáng sinh, những lời chúc noel 2018 hay và ý nghĩa
- Lời chúc 20/10 cho bạn gái hay ý nghĩa
- Lời chúc 8/3 cho mẹ, vợ, người yêu, bạn gái
Thời Gian – Khoảng Cách
Yêu em lắm tuy xa khoảng cách
Cho lòng buồn thử thách thời gian
Một mình suy nghĩ miên man
Nhìn đêm buông xuống ngắm màn sương rơi
Anh vẫn biết ở nơi xa đó
Em hàng đêm lệ nhỏ sầu bi
Gửi vào đêm vắng những gì
Để nhờ làn gió mang đi tới nàng
Nhìn ánh mắt mơ màng nơi ấy
Anh nơi này cũng thấy buồn sao
Con tim thầm nhủ ước ao
Tình mình đẹp lắm lẽ nào chia hai
Ngày mới đến ban mai rực nắng
Mình bên nhau trao tặng yêu thương
Hoa tình yêu nở ngát hương
Vòng tay ân ái môi hường trao duyên
Thời gian sẽ đưa thuyền cặp bến
Rồi niềm vui sẽ đến mọi nhà
Xuân về rạng rõ sắc hoa
Tình đôi mình mãi đậm đà thủy chung.
Vì em không có em của em nên em ko thể tả bài văn tả em của em vì vậy đừng trách em mà trách em ko có em của em
em của em rất xinh, mặt thộn. Thik ăn kẹo, xem ti vi. Hết
1. Phần Tây Nam Bộ (còn gọi là đỒng bằng sông Cửu Long) có nhiều vùng trũng dễ ngập nước như Đồng Tháp Mười, Kiên Giang, Cà Mau. Ngoài đất phù sa màu mỡ. đồnG bằng còn có nhiều đất phèn, đất mặn cần phải cải tạo.
2. Ở Tây Nam Bộ, hằng năm vào mùa lũ, nước các sông dâng cao làm ngập một diện tích lớn. Người dân nơi đây không đắp đê ven sông để ngăn lũ như ở đồng bằng Bắc Bộ. Qua mùa lũ, đồng bằng được bồi thêm một lớp phù sa màu mỡ. Những tháng còn lại là mùa khô, mực nước sông hạ thấp. Vào mùa này, đồng bằng rất thiếu nước ngọt.
3. Ớ Đông Nam Bộ, nhiều hồ lớn được xây dựng để cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô như hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An. Ở Tây Nam Bộ người dân đào rất nhiều kênh rạch nối các sông với nhau, làm cho đồng bằng có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.
k mk nha !
DAC DIEM CHUNG
+ nuoc ta co mang luoi sông ngòi day dac .va phan bo rong khap ca nuoc
-nuoc ta co toi 2360 con song dai tren 10 km ,trong do 93% cac song nho va ngan (dien h luu vuc duoi 500 km^2).Cac song hong ,Me Kong chi co phan trung luu va ha luu chay qua lanh tho nuoc ta .Chung tao nen nhung dong bang chau tho rat rong lon va phi nhieu
+song ngoi nuoc ta chay theo huong chinh la huong tay bac -dong nam va vong cung
+song ngoi nuoc ta co hai mua nuoc:mua lu va mua can khac nhau ro ret
-Vao mua lu song ngoi dang cao va chay manh .Luong mua mua lu gap hai den ba lan ,co noi gap bon lan luong mua mua can va chiem 70-80%,luong nuoc ca nam
+song ngoi nuoc ta co luong phu sa lon
-hang nam song ngoi nuoc ta van chuyen toi 893 ti m^3 nuoc cung voi hang tram trieu tan phu sa .Day that su la nguon tai nguyen rat quan trong cho san xuat va doi song
-Cac song nuoc ta co ham luong phu sa lon .Binh quan 1m khoi nuoc song co 233 gam cat bunva cac chat hoa tan khac .Tong luong phu sa troi theo dong nuoc toi tren 200 trieu tan /nam
KHAI THAC KINH TE VA BAO VE SU TRONG SACH CUA CAC DONG SONG
+Gia tri song ngoi
_Co gia tri to lon ve nhieu mat.Nhan dan dang khai thac ,su dung ,cai tao song ngoi tu lau doi=> phuc vu san xuat doi song
+Song ngoi nuoc ta dang bi o nhiem
_O nhiem nang ne boi rac thai va hoa chat cong nghiep
=>can giu gin su trong sach cho cac con song