Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1 :
1. Thành tựu:
Nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực: Tốc độ tăng trưởng GDP cao, khá ổn định.
2. Hạn chế:
– Nhìn chung nền khinh tế còn phát triển chậm:
+ Quy mô nền kinh tế nhỏ bé: Chiếm 1,9 % GDP toàn cầu, nhưng chiếm 13 % dân số.
+ GDP/ người thấp.
+ Năng suất lao động thấp.
+ Cơ sở hạ tầng yếu kém.
+ Giáo dục y tế kém phát triển.
– Đa số các nước châu Phi thuộc nhóm nước kém phát triển nhất thế giới.
- Phần lớn các quốc gia ở châu Phi có kinh tế chậm phát triển, chuyên môn hóa phiến diện, chú trọng trồng cây công nghiệp nhiệt đới và khai thác khoáng sản để xuất khẩu, giao thông kém phát triển. Một số nước có nền kinh tế tương đối phát triển là Cộng hòa Nam Phi, Ni- giê- ri-a, An- giê- ri, Ai Cập.
chúc bạn học tốt
ha ha ! chắc là do bạn ko tập trung vào bài học nên mới thế . Bạn thử làm một việc nào đó để thư giãn trước khi học là ổn thôi!. Vd như là ăn thử một món nào đó rồi học ,...Cách nay tui thường áp dụng luôn đó , ông bà mình có câu có thực mới vược đc đạo mà
*biểu đồ A:
-lượng mưa Tb năm: 1.244 mm/năm
-sự phân bố lượng mưa trong năm:
+ mưa nhiều nhất: tháng 12
+ mưa ít nhất :tháng 9
-biên độ nhiệt năm : 10 độ C
-sự phân bố nhiệt độ trog năm:
+tháng nóng nhất: 3, 11
+tháng lạnh nhất :7
-kiểu khí hậu: nhiệt đới
*biểu đồ B:
-lượng mưa Tb : 897 mm/năm
-sự phân bố lượng mưa :
+ mưa nhiều nhất : tháng 8
+mưa ít nhất : tháng 2
-biên độ nhiệt: 15 độ C
-sự phân bố nhiệt độ:
+thánh nóng nhất: 5
+tháng lạnh nhất:1
-kiểu khí hậu: nhiệt đới
*biểu đồ C:
-lượng mưa tb: 2.592mm/năm
-sự phân bó lượng mưa:
+ mưa nhiều nhất: tháng 4,11
+mưa ít nhất: tháng 7
-biên độ nhiệt: 5 độ C
-sư phân bố nhiệt độ:
+tháng nóng nhât :4
+tháng lạnh nhất: 7
-kiểu khí hậu: xích đạo
*biểu đồ D:
-lượng mưa tb : 506mm/năm
-sự phân bố lượng mưa :
+mưa nhiều nhất: tháng 5,7
+mưa ít nhất : tháng 1,2
-biên độ nhiệt : 12 độ C
-sự phân bố nhiệt độ
+tháng nóng nhất: 2
+tháng lạnh nhất: 7
-kiểu khí hậu: địa trung hải
* sắp xếp:
-biểu đồ C : vị trí 1(li-brơ-vin)
-biểu đồ B: vị trí 2(ua-ga-đu-gu)
-biểu đồ A: vị trí 3(lu-bum-ba-si)
-biểu đồ D: vị trí 4(kêp-tao)
___________________ (Y)
biểu đồ B : thuộc khí hậu địa trung hải
mùa hạ nhiệt độ khảo 25 độ C, mùa đông nhiệt độ khảng 10 độ C
mùa hạ khô hạn, mưa vào thu đông
giảm tỉ lệ sinh, thực hiện kế hoạch hóa gia đình
Sông Nin (tiếng Ả Rập: النيل, an-nīl, tiếng Ai cập cổ: iteru hay Ḥ'pī - có nghĩa là sông lớn), là dòng sông thuộc châu Phi, là sông chính của khu vực Bắc Phi, là con sông dài nhất trên thế giới,[1] với chiều dài 6.650 km và đổ nước vào Địa Trung Hải. Sông Nin được gọi là sông "quốc tế" vì thượng nguồn của nó bắt đầu từ 11 quốc gia gồm Tanzania, Uganda, Rwanda, Burundi,Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Ethiopia, Eritrea, Nam Sudan, Sudan vàAi Cập.
Sông này còn được người Việt phiên âm là Nhĩ Lô như trong sách Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ.
Đây là dòng sông có ảnh hưởng nhất ở châu Phi, gắn liền với sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại, góp phần tạo dựng nên nền Văn minh sông Nin.
Các đoạn sông
Sông Kagera đổ vào hồ Victoria gần thị trấn Bukoba của Tanzania là nguồn cung cấp nước dài nhất, mặc dù các nguồn tài liệu khác nhau không công nhận nó là nhánh dài nhất và do đó nó là nguồn xa nhất của sông Nile. Nguồn hoặc là Sông Ruvyironza từ tỉnh Bururi, Burundi, hoặc Nyabarongo chảy từ rừng Nyungwe ở Rwanda. Hai nguồn cung cấp này gặp nhau tại thác Rusumo tại ranh giới của Rwanda-Tanzania.
Năm 2010, một nhóm khải sát đã đến đây miêu tả về nguồn của nhánh Rukarara, và đ theo một con đường trên sườn núi đã tìm thấy (trong mùa khô) nguồn nước mặt lộ ra chảy nhiều dặm ở phía thượng lưu, và đã tìm thấy nguồn mới, do đó chiều dài sông Nin là 6.758 km. Vịnh Gish được xem là nơi có "nước thánh" có giọt đầu tiên của sông Nin.
Nin Trắng
Sông Nin có hai nhánh chính, quan trọng nhất là sông Nin Trắng bắt nguồn từ vùng xích đạo Đông Phi, rồi đến sông Nin Xanh bắt nguồn từ Ethiopia. Hồ Victoria, nằm giữa Uganda, Kenya và Tanzania, được xem là nơi bắt nguồn của dòng sông này.
Nin Xanh
Sông Nin Xanh bắt nguồn từ Hồ Tana trên vùng cao nguyên của Ethiopia. Dòng Nin Xanh chảy được khoảng 1.400 km (850 dặm) tới Khartoum thì hai dòng Nin Xanh và Nin Trắng gặp nhau, hợp lưu tạo nên sông Nin. Phần lớn nguồn nước của sông Nin được cung cấp từ Ethiopia, chiếm khoảng 80-85% lưu lượng lệ thuộc vào vũ lượng. Mùa mưa ăn khớp với mùa hè khi nhiều trận mưa rào trút xuống, góp nước cho sông Nin.
Dòng Nin
Đoạn sông Nin ở phía Bắc chủ yếu chảy qua sa mạc. Phần lớn cư dân Ai Cập, ngoại trừ một số dân cư ven biển, sống dọc theo bờ sông Nin bắt đầu từ phía bắc thành phố Aswan. Di tích nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng tập trung dọc theo hai bên bờ sông Nin. Dòng sông Nin còn là huyết mạch giao thông nhất là vào mùa lũ, khi mà các phương tiện đường bộ không thể di chuyển được.
Lưu vực sông Nin
Lưu vực sông Nin chiếm khoảng 1/10 diện tích châu Phi là nơi phát triển và tàn lụi của nhiều nền văn minh cổ đại. Cư dân hai bên bờ sông Nin là một trong những nhóm người đầu tiên biết trồng trọt, làm nông nghiệp và sử dụng cày. Lưu vực sông Nin được giới hạn ở phía Bắc bởi biển Địa Trung Hải, phía Đông bởi dãy Biển đỏ (Red Sea Hills) và Cao nguyên Ethiopia, phía Nam bởi cao nguyên Đông Phi, trong đó có bao gồm hồ Victoria là một trong 2 nguồn của sông Nin, phía Tây tiếp giáp với lưu vực sông Chad, sông Công gô và trải dài xuống Tây nam đến dãy Marrah thuộc Sudan
Lịch sử
Sông Nin với nguồn nước dồi dào đã tạo nên vùng thung lũng trù phú nhất "lục địa đen". Nó đã góp phần rất lớn tới sự hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại, với những kim tự tháp kỳ vĩ. Sông Nin đã ảnh hưởng lớn tới nền văn hoá Ai Cập cổ ngay từ thời đại đồ đá, khi mà sa mạc Sahara đang ngày càng xâm lấn sang phía Đông của lục địa châu Phi.
Sông Nin bắt nguồn từ hồ Victoria ở khu vực xích đạo có mưa quanh năm nên lượng mưa khá lớn. Tới Khác-tum sông Nin nhận thêm nước từ phụ lưu Nin Xanh ở khu vực cận xích đạo, lưu lượng trở nên rất lớn, mùa nước lũ lên tới 90 000 m³/s; đến biên giới Ai Cập mặc dù sông Nin chảy giữa miền hoang mạc và không nhận được thêm phụ lưu nào nữa, nước sông vừa ngấm xuống đất, vừa bốc hơi mạnh, gần biển lưu lượng nước giảm nhiều nhưng ở Cai-rô (Ai Cập) về mùa cạn lưu lượng vẫn còn 700 m³/s.
Tranh chấp về nước
Nước sông Nin ảnh hưởng đến các thể chế chính trị Đông Phi và Sừng châu Phi trong nhiều thập kỷ. Các quốc gia gồmUganda, Sudan, Ethiopia và Kenya đã phàn nàn về việc Ai Cập thống trị nguồn tài nguyên nước. Sáng kiến lưu vực sông Nin thúc đẩy hợp tác hòa bình giữa các nước
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm thiết lập những thỏa thuận chia sẻ nước sông Nin giữa các quốc gia này. Nhưng rất khó khăn để đạt được thỏa thuận của tất cả các quốc gia trên về lợi ích của họ và những khác biệt về chính trị, chiến lược và xã hội. Ngày 14 tháng 5 năm 2010 tại Entebbe, Uganda, Ethiopia, Rwanda, Tanzania và Uganda đã ký một thỏa thuận mới về chia sẻ nước sông Nin mặc dù thỏa thuận này chịu sự phản đối mạnh mẽ của Ai Cập và Sudan. Lý tưởng nhất, những thỏa thuận như thế này nhằm thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả và công bằng nguồn tài nguyên nước lưu vực sông Nin. Nếu không có sự hiểu rõ hơn về sự sẵn có của nguồn tài nguyên nước trong tương lai của sông Nin, thì sẽ có nhiều cuộc xung đột giữa các quốc gia dựa vào nguồn cấp nước, phát triển kinh tế và xã hội từ sông Nin.
Khám phá hiện đại
Cuộc thám hiểm Nin trắng, dẫn đầu bởi Hendrik Coetzee Nam Phi, trở thành người đầu tiên xác định chiều dài toàn bộ của sông Nin. Cuộc thám hiểm nguồn của sông Nin ở Uganda vào ngày 17 tháng 1 năm 2004 và đến Địa Trung Hải ở Rosettamột cách an toàn, trong vòng 2 tháng rưỡi.
Vào 28 tháng 4 năm 2004, nhà địa chất học Pasquale Scaturro và cộng sự của ông, kayaker và nhà làm phim tài liệu Gordon Brown đã trở thành người đầu tiên định vị sông Nin Xanh, từ hồ Tana ở Ethiopia đến các bãi biển thuộc Alexandriaở Địa Trung Hải. Mặc dù chuyến thám hiểm gồm nhiều người khác, nhưng Brown và Scaturro là những người duy nhất hoàn thành toàn bộ cuộc hành trình. Nhóm nghiên cứu sử dụng động cơ rời cho hầu hết cuộc hành trình.
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực của nó vào giai đoạn Tân Vương Quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia,Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba và giai đoạn hậu thời Ai Cập. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemy I Soter, đã tuyên bố ông ta là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemy gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũngsông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.
Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.
chúc bạn học tốt
Khí hậu khắc nghiệt lạnh lẽo khiến cho đới lạnh là nơi có ít dân.Dù đã thích nghi,các dân tộc lâu đời ở phương Bắc cũng chỉ sống được trong các đài nguyên ven biển phía bắc châu Âu, Châu Á, Bắc Mĩ.Người La-pông ở Bắc Âu và người Chúc,người i-a-kut,người Xa-mô-y-et ở bắc áchăn nuôi tuần lộc và săn thú có lông quý.Người Inuit ở Bắc Mĩ và đảo greenland sống bằng nghề đánh bắt cá hoặc săn bắt tuần lộc hải cẩu gấu trắng...... để lấy thịt và da. Họ di chuyển trên các xe trượt do chó kéo.
xích đạo ẩm thì đất ẩm thôi mà cx tùy theo ko có cây thì trơn có cây thì ẩm mát mẻ lắm đốt rác ko bao h cháy rừng
Hinh nhu ban nham roi dung khong? Moi truong xich dao am khong phan biet cac loai dat. Rieng o moi truong nhiet doi o vung nui la dat feralit nhe ban! Chuc ban hoc tot!
Phân bố trong khoảng từ vĩ tuyến 23 độ 27 phút Bắc đến vĩ tuyến 23 độ 27 phút Nam.
Ferdinand Magellan, Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển
Ngay từ những bài học đầu tiên về địa lý thế giới, chúng ta đã được dạy và biết rằng Ferdinand Magellan là người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển. Tuy nhiên có nhiều chi tiết về con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông mà không phải là ai cũng biết. Bài viết này muốn cung cấp thêm cho bạn đọc một số thông tin như vậy.
Ferdinand Magellan sinh năm 1480 tại vùng Sabrosa, một mảnh đất nằm ở phía Bắc Vương quốc Bồ Đào nha, mất ngày 27 tháng 4 năm 1521 tại Mactan Cebu, Philippines. (Cũng có tài liệu nói rằng ông sinh ra tại vùng Vila Nova de Gaia, gần Porto, thuộc tỉnh Douro Litoral của Bồ Đào Nha).
H1- Ông Ferdinand Magellan
H2- Chữ ký của F. Magellan
Cha của F. Maggelan là Rodrigo de Magalhães và mẹ là Alda de Mesquita. Khi cả cha và mẹ đều mất ở tuổi lên 10, F. Magellan đã trở thành người hầu của Hoàng Hậu Leonor thuộc Hoàng gia Bồ Đào Nha. Là người Bồ Đào Nha, nhưng tên tuổi ông, gắn với danh hiệu Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển lại là khi ông phục vụ cho nhà Vua Charles I của Tây Ban Nha trong nỗ lực tìm kiếm con đường biển đi về hướng Tây để đến được “Những hòn đảo gia vị” (Spices Islands) hay trong các sách lịch sử và địa lý trước đây thường gọi là “Vùng đất hồi, quế – chính là các đảo Maluku ở Indonesia ngày nay.
Chuyến đi của Magellan (1519-1522) với tư cách là người chỉ huy đoàn tàu của Tây Ban Nha là chuyến thám hiểm đầu tiên từ Đại Tây Dương đi vào Thái Bình Dương (được Magellan gọi là “Biển bình yên – Peaceful sea” ), qua eo biển Magellan (eo biển sau này được mang tên ông) và cũng là chuyến đi đầu tiên vượt Thái Bình Dương, đồng thời là chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới, dù rằng bản thân Magellan không hoàn thành được toàn bộ hành trình, do bị giết chết trong trận phục kích của thổ dân tại Mactan, Philippines.
Ta hãy cùng điểm lại những nét chính nhất trong cuộc đời và sự nghiệp của Ferdinand Magellan.
Tháng 3 năm 1505, ở tuổi 25, F.Maggelan đăng ký phục vụ trên một hạm đội gồm 22 chiến thuyền của Bồ Đào Nha theo Đô đốc Francisco de Malmeda khi vị Đô đốc này được cử làm Tổng trấn, Phó vương đầu tiên của Ấn Độ thuộc Bồ. Ông phục vụ trong hạm đội này trong 8 năm và đã tham gia một số trận đánh, và bị thương trong trận Cannamore năm 1506. Vào năm 1509, F. Magellan tham gia trong đoàn chiến thuyền của Diogo Lopes de Sequira đánh chiếm vùng đất Malaca, Malaysia. Tháng 9 năm đó, đoàn chiến thuyền của Bồ Đào Nha bị phục kích và buộc phải rút lui. Trong chiến dịch đó, F. Magellan đóng một vai trò quan trọng, cảnh báo và cứu thoát được Francisco Serrao, là một thuyền trưởng trong hạm đội đó, đồng thời cũng là anh em họ của mình và vì vậy ông được vinh danh và thăng cấp.
Tuy vậy, sự nghiệp của F. Magellan không được thuận buồm xuôi gió ở đất Bồ Đào Nha. Sau một lần tự ý rời tàu mà không được phép, F. Magellan không còn được sủng ái nữa. Tiếp đó trong một trận dánh ở Morocco, ông bị thương ở chân và trở thành phế tật vĩnh viễn. Cũng trong thời gian này, có kẻ tâu với triều đình rằng F. Magellan có những hoạt động buôn bán bất hợp pháp với người Moors. Dù rằng sau đó, những lời tố cáo này được chứng minh là không có cơ sở, tuy nhiên từ tháng 5 năm 1514 ông vẫn không được tin dùng trở lại. Dù rằng đã từng ở cương vị chỉ huy một chiến thuyền, nhưng vào năm 1515, F. Magellan chỉ được đề nghị giữ một chân thủy thủ bình thường trên một chiến thuyền của Bồ Đào Nha và vì lòng tự trọng, ông đã từ chối “lời đề nghị khiếm nhã”này. Năm 1517, ông đã có thái độ bất kính đối với nhà Vua Manuel I của Bồ Đào Nha do liên tục bị khước từ đề xuất của mình về chuyện được dẫn dắt một đoàn thám hiểm tìm đường đến những “Hòn đảo gia vị” nằm ở Phương Đông bằng cách đi về phía Tây. Vì lý do đó, cũng như thấy rằng không thể thực hiện được những ước mơ của mình ở Bồ Đào Nha, ông tìm đến Tây Ban Nha, một quốc gia láng giềng, nhưng cũng là đối thủ cạnh tranh của Bồ Đào Nha trong những cuộc viễn chinh tìm đường đến các thuộc địa, các thị trường mới. Tại Seville Tây Ban Nha, ông đã kết bạn và rồi trở thành con rể của Diogo Barbosa, người có nhiều ảnh hưởng đến việc gây dựng nên tên tuổi của F. Magellan với danh hiệu “Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển” sau này.
Trong thời gian bị thất sủng, cùng với Rui Faleiro, một nhà thiên văn học, F. Magellan dành toàn bộ thời gian, tiền bạc vào nghiên cứu những hải đồ mới nhất,. Hai người tìm kiếm con đường từ Đại Tây Dương sang Nam Thái Bình Dương cũng như khả năng để biến Moluccas thực sự trở thành vùng đất thuộc địa của Tây Ban Nha, theo như phân định của Hiệp ước Tordesillas.
Tháng 10 năm 1517, F. Magellan đã gặp Juan de Aranda ở Seville, Tây Ban Nha. J. Aranda đã hỗ trợ cho F. Magellan và người đối tác của ông là Rui Faleiro đệ trình bản kế hoạch của mình lên nhà vua Tây Ban Nha Charles I. Nhận thấy đề xuất của F. Magellan cực kỳ hấp dẫn khi mở ra hy vọng tìm được “con đường gia vị - con đường hồi, quế” mà không gây phương hại đến mối quan hệ với người láng giềng Bồ Đào Nha. Ý tưởng đưa ra thật hợp thời, khi từ lâu, nhà Vua Tây Ban Nha vẫn nung nấu ý định tìm con đường về phương Đông, mở ra những cơ hội buôn bán, phát triển và trước hết là chiếm cứ thuộc địa. Ngày 22 tháng 3 năm 1518, Nhà Vua Tây Ban Nha Charles I, đã phong cho F. Magellan và R. Faleiro là những “Thuyền trưởng” chỉ huy chiến dịch mở “con đường gia vị”. Để khuyến khích F. Magellan và cộng sự của ông, Nhà Vua Tây Ban Nha đã thỏa thuận cho họ được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi như được độc quyền sử dụng con đường mà họ tìm ra trong 10 năm; được phong làm Thống đốc những vùng đất, hòn đảo mà họ phát hiện ra, được hưởng 1/5 số của cải thu được từ chuyến đi và nhiều quyền lợi khác nữa khi tìm ra được con đường này.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 1519, đoàn tàu 5 chiếc gồm Trinidad, San Antonio, Concepción, Victoria và Santiago dưới sự chỉ huy của F. Magellan rời cảng Seville, xuôi theo dòng sông Guadalquivir về Sanlucar de Barrameda một điểm tập kết nằm ở cửa sông. Họ dừng lại đây để củng cố tầu, trang thiết bị, cấp thêm thực phẩm và nước ngọt để rồi ngày 20 tháng 9 năm đó chính thức khởi hành rời Tây ban Nha. Ngoài khoản kinh phí của nhà Vua Tây ban Nha cấp cho việc đóng 5 con tàu này cùng lương thực, thực phẩm đủ dùng cho 2 năm, đoàn thám hiểm còn có các nguồn tài trợ khác. Một trong những nhà tài trợ quan trọng nhất là Christopher de Haro, một thương nhân Tây Ban Nha, người cũng tin vào việc có thể tìm ra được đường đi đến Đông bán cầu bằng cách đi về phía Tây và cùng với đó là mở ra cơ hội làm ăn buôn bán mới. Ông này đóng góp ¼ kinh phí cho chuyến đi cùng toàn bộ số hàng hóa chất trên các tàu để các thủy thủ trên tàu có thể mang ra đổi hàng tại các địa phương tàu đến. Magellan trực tiếp chỉ huy con tàu Trinidad là tàu dẫn đường, trọng tải 110 tấn, thủy thủ đoàn 55 người. Các con tàu khác bao gồm tàu San Antonio – 120 tấn, 60 thủy thủ, do Juan de Cartagena làm thuyền trưởng; tàu Conception – 90 tấn, 45 thủy thủ, do Gaspar de Quesada làm thuyền trưởng; tàu Santiago – 75 tấn, 32 thủy thủ do Juan Serrano làm thuyền trưởng và tàu Victoria – 85 tấn, 43 thủy thủ do Luis Mendoza là thuyền trưởng. Một điểm thú vị là con tàu Victoria này được lấy tên của nhà thờ Saint Maria ở vùng Victoria de Triana, tại đây, chính Magellan đã làm lễ đọc lời thế trung thành với nhà vua Charles V của Tây Ban nha, trước chuyến đi.
Một điều đặc biệt khác nữa của đoàn tàu này là thủy thủ đoàn, 270 người, toàn những người có nhiều kinh nghiệm đi biển, được mệnh danh là những “sói biển” đến từ nhiều nước khác nhau, bao gồm các quốc tịch Bồ Đào nha, Tây Ban Nha, Italia, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Anh và Pháp. Lúc đầu, số thủy thủ người Bồ Đào Nha có nhiều hơn, tuy nhiên do nhiều người trong triều đình Tây Ban Nha lo ngại rằng những người cùng quốc tịch với Magellan đó có thể cùng ông phản lại lợi ích của Tây Ban Nha nên họ cố gắng cản trở chuyến đi, rồi thay thế bằng những thủy thủ người Tây Ban Nha, nên cuối cùng cũng chỉ còn 40 người Bồ Đào Nha trên các tàu. Mặc dù vậy, trong số những người Bồ Đào Nha còn lại trên tàu, Magellan đã cố gắng giữ được những nhân vật quan trọng như người em vợ của mình là Duarte Barbosa, rồi Joao Serrao- một người bà con của thuyền trưởng Francis Serrao, người đã được Magellan cứu sống trong một trân đánh trước đây, cũng như Enrique de Malacca, một người khác đã được Magellan cứu trong trận người Bồ Đào Nha bị phục kích và phải tháo chạy ở Malacca, Malaysia năm xưa, nay trở thành người hầu thân cận và là phiên dịch tiếng Malay của Magellan. Tuy nhiên cũng có những nhân vật đã từng tham gia với Magellan ngay từ ban đầu để chuẩn bị cho chuyến đi này như nhà thiên văn học Rui Faleiro thì cho đến phút cuối cùng lại tỏ ra nghi ngờ thành công của chuyến đi và rút khỏi danh sách thủy thủ đoàn. Ngược lại cũng có những người khác như một thuyền trưởng tàu buôn người Tây Ban Nha tên là Juan Sebastien Elcano, chỉ đến khi đoàn tàu đang tập kết ở cảng Seville, quê hương ông, thì ông mới xin với nhà Vua Tây Ban Nha cho được tham gia đoàn và chính ông này là người sau này đã chỉ huy con tàu duy nhất trong đoàn tàu 5 chiếc, quay về được Tây Ban Nha hoàn thành chuyến đi vòng quanh trái đất và được chính thức vinh danh về việc đó. Tham gia đoàn còn có một học giả người vùng Venice, tên là Antonio Pigafetta. Ông vốn là con người rất uyên thâm, đáng kính, nhưng vì thích phiêu lưu, mạo hiểm nên đề nghị được tham gia đoàn và chấp nhận một chức danh rất khiêm tốn là “Thư ký”. Chính nhờ những ghi chép đầy đủ và chính xác của ông cùng với những trang nhật ký tàu do Francis Albo lập mà ngày nay chúng ta có được những tư liệu để biết được về chuyến đi lịch sử này của Magellan và đoàn thám hiểm của ông.
Ngay từ những ngày đầu của hành trình, Magellan và đoàn tàu của ông đã phải đối mặt với những khó khăn và nguy hiểm. Trước hết là chuyện nhà Vua Bồ Đào Nha Manuel I đã lệnh cho một hạm đội đuổi theo và ngăn cản chuyến đi này. Tuy nhiên Magellan với kinh nghiệm đi biển của mình đã tránh được sự theo đuổi đó. Sau khi dừng tránh bão ở đảo Canary, đoàn tàu của Megellan đến Cape Verde và từ đó lần theo hướng Tây sang Cape St. Augustine ở Brazil. Vào ngày 27 tháng 11 năm đó, đoàn thám hiểm đã vượt qua xích đạo và 10 ngày sau họ đã thấy thấp thóang vùng đất Nam Mỹ. Do bởi Brasil là thuộc địa của Bồ Đào Nha, nên để tránh đụng độ, Magellan quyết định tránh miền đất này, không lên bờ. Tuy nhiên họ vẫn phải neo đậu tại một địa điểm mà ngày nay gần ở Rio de Janeirro để cấp thêm lương thực. Một lần nữa, thời tiết xấu lại làm trì hoãn chuyến đi. Sau nhiều ngày chờ đợi, đoàn thám hiểm đi dọc xuống phía nam theo bờ Đông của lục địa Nam Mỹ, lần tìm eo biển mà Magellan cho rằng có thể nối đến con đường dẫn đến những Hòn đảo gia vị. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1520, họ đến Rio de la Platta thuộc Argentina.
Vào ngày 30 tháng 3 năm 1520, thủy thủ của đoàn thám hiểm đã lập một khu định cư tại một vùng đất thuộc Argentina mà họ gọi là Puerto Julian. Chỉ vài ngày sau đó, một cuộc nổi loạn đã nổ ra, cầm đầu là 2 trong số 5 thuyền trưởng của đoàn tàu, chủ yếu nhằm giành quyền chỉ huy đối với F. Magellan và từ đó là những quyền lợi gắn liền với vị trí đó. Tuy nhiên cuộc nổi loan này đã nhanh chóng bị dập tắt, do đa số thủy thủ vẫn trung thành với F. Magellan. Theo những ghi chép của Antonio Pigafetta thì Juan Sebastien Elcano là một trong những người được tha thứ trong khi Gaspar Quesada, thuyền trưởng của tàu Conception đã bị xử tử tại chỗ còn Juan de Cartagena, thuyền trưởng của tàu San Antonio và một tu sĩ tên là Padre Sanchez de la Reina thì bị bỏ lại trên hoang đảo. Cũng có tài liệu viết rằng những kẻ nổi loạn bị phân thây làm tư, vứt trên bãi biển và nhiều năm sau thuyền trưởng Francis Drake còn tìm thấy xương cốt của họ. Đóng góp quan trọng trong việc dẹp nổi loạn, cùng với năng lực chỉ huy và kinh nghiệm đi biển của mình, Duarte Barbosa, người em vợ của F. Magellan sau đó được cử làm thuyền trưởng của tàu Victoria.
H3- Eo biển ngày nay mang tên Magellan, “The Straight of Magellan” cắt qua mũi cực nam của Nam Mỹ, nối Đại Tây dương với Thái Bình dương.
Ảnh trên internet của Wikipedia.
Ngay sau vụ nổi loạn, tàu Santiago lại gặp sự cố khi được cử đi do thám, tìm đường dọc theo bờ biển về phía Nam và bị một con bão bất ngờ nhấn chìm. Rất may là toàn bộ thủy thủ đều bơi được vào bờ an toàn. Họ cử người về báo cáo tình hình cho F. Magellan và xin cứu hộ. Sau sự cố này, Magellan quyết định chờ đợi thêm vài tuần trước khi tiếp tục hành trình. Vào ngày 21 tháng 10 năm 1520, tại vĩ độ 52 độ Nam, đoàn thám hiểm đã đến được Cape Virgenes và tin chắc rằng họ đã tìm ra được đường sang Thái Bình dương. 4 con tàu còn lại vượt qua một quãng đường gian khổ dài 373 hải lý trên một vùng nước mà F. Magellan gọi là Estrecho de Todos los Santos bằng tiếng Bồ Đào Nha hay All Saint’s Channel bằng tiếng Anh tức Eo biển các Thánh, do bởi đoàn thám hiểm của ông đi qua eo biển này vào ngày 1 tháng 11, ngày Các Thánh. Eo biển này giờ được mang tên ông, “The Straight of Magellan”. Lại một lần nữa xảy ra tình trạng chống lệnh chỉ huy trong đoàn thám hiểm. Khi được cử đi cùng tàu Conception để dò đường, tàu San Antonio, lúc này do Gomez làm thuyền trưởng đã tự ý tách đoàn và đổi hướng quay trở về Tây Ban Nha vào ngày 20 tháng 11. Vào ngày 28 tháng này, khi đoàn tàu sang được đến Nam Thái Bình dương thì chỉ còn 3 tàu. Khi thấy một vùng nước rất thanh bình, rộng mênh mông, F. Magellan đã thốt lên “Mar Pacifico” có nghĩa là “Pacific Ocean” trong tiếng Anh hay Thái Bình dương trong tiếng Việt.
H 4 - Tượng đài Ferdinand Magellan ở Punta Arenas, Chile, nhìn về hướng eo Magellan.
Ảnh trên internet của wikipedia
Khi sang đến Thái bình dương, đoàn thám hiểm đổi hướng chạy lên phía Tây Bắc và họ lại vượt qua đường xích đạo, trở lại Bắc bán cầu vào ngày 13 tháng 2 năm 1521. Ngày 6 tháng 3 cùng năm này, họ đến được các đsảo Marianas và Guam. F. Magellan đặt tên cho Guam là “Hòn đảo những cánh buồm” do nơi đây, phương tiện đi lại chủ yếu, nếu không muốn nói là duy nhất của người dân địa phương là những con thuyền buồm. Trong thời gian lưu lại những hòn đảo này, nhiều thuyền nhỏ, vốn là phương tiện để thủy thủ của đoàn thám hiểm đi vào bờ và từ bờ ra đảo, bị người dân địa phương lấy cắp mất (do được làm bằng kỹ thuật tinh xảo hơn, tốt hơn kiểu thuyền buồm hay thuyền độc mộc đơn sơ của người dân bản địa) nên họ cũng gọi những hòn đảo này bằng cái tên Những Hòn đảo Kẻ cắp – “Islands of Thieves”. Tiếp tục hành trình về hướng Tây, ngày 17 tháng 3 năm đó, F. Magellan cùng đoàn thủy thủ của ông, lúc này chỉ còn lại có 150 người từ quân số 270 người lúc đầu, tất cả đều bệnh tật, ốm yếu, đến được đảo Homonhon thuộc Philippines. Họ là những người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân đến miền đất này.