Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho con người nhiều loại trái cây thơm ngon. Biết bao loại cây, mỗi loại lại có một dáng vẻ, một công dụng khác nhau. Chuối là một loài cây đã vô cùng quen thuộc, gần gũi với làng quê. Đi khắp đất nước Việt Nam, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những cây chuối, bụi chuối xanh tốt vươn lên từ bờ ao, bờ sông.
Chuối là loại cây có quả được ăn rộng rãi nhất. Nguồn gốc của cây chuối là từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó đã được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối có mặt ở ít nhất 107 quốc gia. Quả của những cây chuối dại có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối để ăn đều thiếu hột vì đã được thuần hóa lâu đời.
Chuối thường được trồng nhiều ở nông thôn và miền núi. Vì là loài ưa nước nên nó thường mọc ở bên bờ sông, bờ suối. Thân chuối thẳng, nhẵn bóng như cái cột nhà. Thân chuối do nhiều bẹ chuối ôm lấy nhau tạo thành. Bẹ ở ngoài thường có màu đậm hơn, bẹ nằm chính giữa thì có màu trắng. Thân chính này là một thân giả của chuối. Nõn chuối màu xanh non, có hình dạng giống cuốn thư thời xưa. Cây chuối có rất nhiều tàu lá, lá chuối to như tấm phản, gân lá to chạy dọc phiến lá. Lúc lá chuối còn tươi thì có màu xanh nhạt, lúc già thì rũ xuống thân cây, chuyển thành màu nâu. Hoa chuối lúc mới ra thì hướng thẳng lên trời, sau quay sang ngang rồi đâm xuống đất. Sau khi hoa chuối già, bẹ ở ngoài rụng hết thì bắt đầu phát triển thành quả. Một buồng chuối có nhiều nải chuối, thường là 10 nải. Những buồng chuối có khi dài từ đỉnh xuống tận gốc, trĩu nặng cả thân cây. Quả chuối màu xanh lúc còn non, khi chín chuyển thành vàng, trông như vầng trăng lưỡi liềm.
Chuối có rất nhiều công dụng, hầu như bộ phận nào của cây cũng không cần bỏ đi. Quả chuối chín thơm ngon, bổ dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Ăn chuối còn có tác dụng làm đẹp cho da. Quả chuối xanh ăn kèm với thịt luộc và thường được nấu kèm với cá, ốc, trai..., vừa khử tanh vừa làm cho món ăn thêm đa dạng. Lá chuối tươi dùng để gói quà, gói bánh. Lá chuối khô có thể làm chất đốt hoặc dây buộc. Củ chuối, hoa chuối thì nấu canh hoặc làm món nộm, salad. Thân chuối xái nhỏ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hạt chuối có thể làm một vị thuốc tốt trong Đông y. Chuối có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Vào ngày Tết, trên mâm ngũ quả của mỗi gia đình không thể thiếu một nải chuối để cúng tổ tiên. Chuối vốn dĩ chỉ trồng để ăn quả nhưng hiện nay nó còn được dùng để trang trí trong nhà. Tàu lá rộng, xanh mướt của chuối tạo cảnh quan đẹp mắt, mang lại cảm giác tươi mới, êm đềm, tin cậy tượng trưng cho tình yêu của mẹ thiên nhiên. Những năm tháng chiến tranh đói ăn, đói mặt, chuối là nguồn thực phẩm dồi dào đã cứu sống không biết bao nhiêu mạng người.
Chuối cũng khá phong phú, đa dạng về chủng loại. Một số loại chuối tiêu biểu như: chuối ta quả dài như lưỡi liềm, chuối tây quả tròn và ngắn hơn, chuối hột, chuối mật, chuối trứng cuốc. Chuối ngự quả ngắn nhưng ruột vàng và có vị rất thơm ngon. Khi xưa, chuối ngự là món ăn hoàng gia, chỉ có vua chúa mới được thưởng thức. Chuối ngự chính lá đặc sản của cùng Hòa Hậu, Lí Nhân, Hà Nam
Cây chuối mọc thành từng bụi và được trồng bằng cách tách rời thân non đem trồng thành bụi mới. Ta nên trồng chuối ở nơi gần nguồn nước như ao, hồ để tiện tưới tắm. Chuối là loại cây dễ trông và phát triển khá nhanh nên không cần tốn công chăm sóc.
Nguyễn Trãi đã từng làm bốn câu thơ về cây chuối, gọi là “Ba tiêu” :
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem”
Trải qua bao nhiêu năm nữa, chuối vẫn sẽ có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam
Chúc bạn học tốt
tham khảo :
Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam.
Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất nhanh tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cầy uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ: chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường...
Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rỗng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng... và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn,... vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng.
Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn ở đời sống tinh thần: cây chuối là biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn liền với cuộc sống nông thôn, với đất nước, dân tộc ta.
Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
"Ko thiếu những buồng chuối....tận gốc cây."
"Thân chuối mềm vươn lên....đến núi rừng."
"chuối mọc thành rừng bạt ngàn vô tận....con đàn cháu lũ."
"Chuối trứng cuốc-không phải...như vỏ trứng cuốc."
Tác dụng: Giúp người đọc hình dung ra một cách cụt thể sinh động đặc điểm của cây chuối, công dụng, cách sử dụng sản phẩm từ cây chuối.
Câu 1: Giới thiệu về tác giả.
- Bằng Việt tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất – Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Trẻ trung, hồn nhiên, tài hoa là nét đặc sắc trong hồn thơ Bằng Việt. Sau tập thơ Hương cây – Bếp lửa in chung với Lưu Quang Vũ, ông có các tập thơ: Những khoảng trời, Đất sau mưa, Khoảng cách giữa lời.
- Các tác phẩm chính : Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa…
- Tác giả đã nhận được : giải Nhất văn học – nghệ thuật Hà Nôi 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.
Giới thiệu về tác phẩm.
- Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác vào năm 1963 khi đang học đại học ở nước Nga, sau được in trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa.
- Qua hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa và bàn tay nhóm lửa, tác giả thể hiện lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn của đứa cháu đi xa đồng thời nói lên tình yêu thiết tha đối với gia đình quê hương đất nước. Gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.
- Nét đắc sắc về nghệ thuật là: sáng tạo hình tượng thơ “Bếp lửa” mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Giọng điệu và thể thơ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm.
Câu 2:
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy.
- Nguyễn Duy là bút danh, họ tên là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở thành phố Thanh Hóa.
- Ông gia nhập quân đội từ 1966, vào Bộ tư lênh Thông tin và đi suốt hành trình chiến đấu và chiến thắng cùng quân và dân ta trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Từ 1976, chuyển ngành về làm báo Văn nghệ giải phóng. Hiện công tác tại tuần báo Văn nghệ.
- Thơ Nguyễn Duy dung dị, hồn nhiên và trong sáng. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ sáng tạo, gợi cảm và rất đẹp, một vẻ đẹp chân quê. Sau này, cảm xúc trữ tình trong thơ Nguyễn Duy ít nhiều pha màu sắc triết lý khá thâm trầm, ấn tượng, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt suy tư.
- Tác phẩm đã xuất bản: Cát trắng, Ánh trăng, Mẹ và em, Đường xa…
- Năm 1973, Nguyễn Duy được tặng giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ với bốn chùm thơ: Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông. Tặng thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam (1984).
Giới thiệu về bài thơ.
- Bài thơ Ánh trăng được tác giả Nguyễn Duy viết năm 1978, sau đưa vào tập Ánh trăng – tập thơ được tặng thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984.
- Bài thơ như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước. Bài thơ được xem là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ về cội nguồn và ý thức trước lẽ sống thủy chung.
- Nét đặc sắc về nghệ thuận của bài thơ: là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình. Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, hài hòa, sâu lắng. Nhịp thơ trôi chảy, nhẹ nhàng, thiết tha cảm xúc khi trầm lắng suy tư. Các biện pháp nghệ thuận nhân hóa, ẩn dụ. Kết cấu giọng điều tạo nên sự chân thành, có sức truyền cảm sâu lắng.
Tham khảo
Mở bài: Giới thiệu về con chó vật nuôi mà em yêu thích nhất. Có thể là con chó được nuôi trong nhà hoặc chó em được thấy.
Thân bài
Nguồn gốc:
– Chó có nguồn gốc từ chó sói và được loài người thuần hóa cách đây 12000 khi loài người còn ăn lông ở lỗ.
– Loài chó đang nuôi trong nhiều gia đình nằm trong một nhóm chó nhỏ tiến hóa đến ngày nay.
Miêu tả:
– Trọng lượng cho đa dạng,nhỏ nhất từ 1-5kg, có những con trọng lượng hàng chục kg. Động vật 4 chân, có 4 ngón, dưới chân có đệm mềm giúp giữ ấm và di chuyển nhanh chóng.
– Chó rất trung thành và thông minh.
– Mắt chó cấu tạo 3 mí, mí trên, mí dưới và mí thứ 3 nằm sâu bên trong giúp che chắn cho mắt khỏi bụi.
– Tai chó thính, có thể nghe ngóng từ khoảng cách rất xa. Khứu giác (mũi) chó ngủi tốt nhưng không nhạy bằng tay.
– Chó thông thường có 2 lớp lông, mượt mà. Mỗi lớp đều có chức năng riêng.
– Đuôi chó giúp giao tiếp, khi chúng vẫy đuôi với con người hoặc loài vật khác chứ hiếm khi tự làm một mình.
Giống chó:
Nhờ lai tạo mà ngày nay có rất nhiều giống chó khác nhau. Ví dụ
– Chó Shiba Inu: chó nhỏ và thông minh của Nhật Bản. Shiba Inu nhanh nhẹn, đáng yêu thương được làm cảnh, thú cưng trong nhà. Đây là giống chó đắt tiền.
– Chó Phốc: chó nhỏ, gọn, lông bóng mượt. Tuổi thọ cao khoảng 15 năm.
– Chó Chihuahua: cân nặng từ 2 – 3kg, nhanh nhẹn, thông minh và năng động so với các loài khác. Vì nhỏ gọn nên nuôi trong nhà tiện lợi.
– Chó Corgi: chó nhỏ có xuất xứ Wales cổ, trước kia con người dùng chúng khi chăn gia súc và săn đuổi bắt chuột. Ngày nay chúng được dùng làm thú cưng và giá không hề rẻ.
Công dụng:
– Chó thú cưng gần gũi, thông minh, trung thành.
– Chó thực hiện nhiệm vụ như trông nhà, săn bắt, kéo xe,…một số giống chó còn dùng làm cứu hộ.
– Chó thú cưng thân thiết và gắn bó với con người.
Kết bài:
– Con chó loài vật trung thành, thông minh và gắn bó với con người trong mọi hoàn cảnh.
– Chó cũng là thành viên trong nhà và thú cưng nhiều gia đình,đặc biệt là với những người độc thân.
(1) Nhan đề văn bản khái quát hai nội dung chủ yếu trong văn bản thuyết minh này:
- Đặc điểm của cây chuối Việt Nam.
- Tác dụng của cây chuối trong đòi sông người Việt Nam.
(2) Đi khắp Việt Nam, nơi đâu ta cũng gặp cây chuối thân mềm vươn lên như những trụ cột nhẵn bóng, toả ra vòm tán lá xanh mướt che rợp từ vườn tược đến núi rừng.
Chả là gốc chuối tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có dễ chùm nằm dưới mặt đất.
(3) Yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh có tác dụng bổ trợ, làm tăng thêm sức hấp dẫn, giúp cho việc giới thiệu, giải thích được rõ ràng hơn.
- Thân cây chuối có hình tròn thẳng như cột đình, toả ra những tán lá xanh.
- Lá chuối tươi xanh mướt to như những chiếc phản
- Lá chuối khô màu vàng sậm dùng để gói bánh nếp, bánh gai
- Quả chuối khi chín vỏ thường có chấm nâu hoặc đen như hình trên vỏ trứng chim cuốc gọi là chuối trứng cuốc.
- Bắp chuối to trĩu xuống lộ ra màu đỏ
- Nõn chuối trắng muốt, trông tinh khiết như một làn ánh sáng trắng
- Thân cây chuối có hình dáng thẳng, tròn như một cái cột trụ mọng nước.
- Lá chuối tươi xanh rờn cong cong dưới ánh trăng, thỉnh thoảng lại vẫy lên phần phật như mời gọi ai đó trong đêm khuya thanh vắng.
- Lá chuối khô màu nâu, thuở xa xưa thường dùng để lót ổ nằm vừa mềm mại, vừa ấm áp.
- Nõn chuối màu xanh non cuốn tròn như một bức thư còn phong kín đang đợi gió mở ra.
- Bắp chuối màu phơn phớt hồng đung đưa trong gió chiều nom giống một cái búp lửa của thiên nhiên kì diệu.
- Quả chuối chín vàng vừa bắt mắt, vừa dậy lên một mùi thơm ngọt ngào quyến rũ.
1_ Nhan đề là trọng tâm của bài văn thuyết minh: tác giả không miêu tả 1 cây chuối cụ thể mà là dùng yếu tố miêu tả để khơi gợi cảm nhận khi nói về cây chuối trong đời sống VN
2_"Đi khắp VN, nơi đâu cũng gặp...... Vườn tược đến rừng núi
_"Chuối phát triển rất nhanh.. . Con đàn cháu lũ "
3_làm cho bài văn nổi bật và Gây ấn tượng cho người đọc