Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đặc sắc của Huy Cận. Bài thơ đã miêu tả nhiều cảnh ra khơi đánh cá từ lúc "mặt trời xuống biển" đến khi "mặt trời đội biển nhô màu mới". Đoàn thuyền ra khơi đi tìm được luồng cá trong lòng biển. Lưới đã thả và luồng cá hiện ra. Những con cá hiện ra thật đẹp: cá nhụ cá chim cùng cá đé. Trong tầm nhìn, từng đàn cá chen nhau đông đúc trong lưới. Dưới ánh trăng, thân hình cá lấp lánh, lung linh. Đoạn thơ cho ta thấy đầy đủ màu sắc rực rỡ của con cá song. Giữa muôn ngàn cá, con nào cũng đẹp nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu sắc rực rỡ như ngọn đuốc của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn mà còn là ở cái đuôi quẫy khiến trăng vàng chóe. Chính cử động ấy đã làm cho tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng "em" trìu mến. Câu thơ đã góp phần làm cho bức tranh cá đầy màu sắc, ánh sáng, có hồn, và có giá trị thẩm mĩ đặc sắc: gợi tả và ca ngợi biển quê hương giàu đẹp.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đặc sắc của Huy Cận. Bài thơ đã miêu tả nhiều cảnh ra khơi đánh cá từ lúc "mặt trời xuống biển" đến khi "mặt trời đội biển nhô màu mới". Đoàn thuyền ra khơi đi tìm được luồng cá trong lòng biển. Lưới đã thả và luồng cá hiện ra. Những con cá hiện ra thật đẹp: cá nhụ cá chim cùng cá đé. Trong tầm nhìn, từng đàn cá chen nhau đông đúc trong lưới. Dưới ánh trăng, thân hình cá lấp lánh, lung linh. Đoạn thơ cho ta thấy đầy đủ màu sắc rực rỡ của con cá song. Giữa muôn ngàn cá, con nào cũng đẹp nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu sắc rực rỡ như ngọn đuốc của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn mà còn là ở cái đuôi quẫy khiến trăng vàng chóe. Chính cử động ấy đã làm cho tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng "em" trìu mến. Câu thơ đã góp phần làm cho bức tranh cá đầy màu sắc, ánh sáng, có hồn, và có giá trị thẩm mĩ đặc sắc: gợi tả và ca ngợi biển quê hương giàu đẹp
Tác giả thầm cảm ơn sự dồi dào và hào phóng của biển cả khi cho con người nhiều loài cá, con người phải yêu quý và trân trọng biển cả
- Cảm nhận được vẻ đẹp của con người lao động trước thiên nhiên:
- Con người lãng mạn, bay bổng và hài hoà với thiên nhiên kì vĩ: lái gió với buồm trăng, lướt giữa mây cao với biển bằng.
- Con người mang tư thế khoẻ khoắn, kiêu hãnh, mang tầm vóc lớn lao của người chinh phục và làm chủ thiên nhiên: đậu dặm xa dò bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
- Cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên:
- Thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, có sự giao hòa giữa trời cao và biển rộng: gió, trăng, mây cao, biển bằng, đêm thở, sao lùa.
- Biển hiện lên lung linh với những sắc màu huyền ảo của đêm trăng: vẻ rực rỡ, lấp lánh của trăng, sao, màu đen, hồng của cá song tạo nên một bức tranh sống động.
- Biển đẹp, giàu với rất nhiều loài cá. Biển là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
- Qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, Huy Cận bày tỏ tình yêu, niềm tự hào với con người, với đất nước Việt Nam và niềm vui trước cuộc đời mới.
Về nghệ thuật
- Phân tích được những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:
- Hình ảnh thơ kì vĩ, sống động, giàu sắc màu.
- Biện pháp nghệ thuật linh hoạt, hiệu quả: nhân hoá, ẩn dụ, liệt kê, phóng đại.
- Bút pháp vừa tả thực, vừa lãng mạn bay bổng.
- Chúc em học tốt
a. - Nhịp thơ 2/1/2, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt: chân phải – chân trái, một bước – hai bước, tiếng nói – tiếng cười.
=> Bằng hình ảnh cụ thể, bốn câu thơ đầu gợi lên không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt của gia đình với hình ảnh đứa con, cha và mẹ cùng đùa vui, đầy ắp tiếng cười. Con lớn lên trong tình yêu thương, chở che và sự đùm bọc, dìu dắt của cả cha và mẹ.
b. Điều đầu tiên cha muốn nói với con: Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người chính là gia đình và quê hương.
Em tham khảo:
Khổ thơ miêu tả vẻ đẹp của những loài cá. Ở đây đã có sự pha trộn giữa thực tế và mộng ảo. Bằng nghệ thuật liệt kê nhà thơ đã kể tên rất nhiều loài cá rất quý hiếm. Mỗi loài cá mang một màu sắc khác nhau được phản biểu dưới ánh trăng sao càng rực rỡ dướu bức tranh sơn mài; lấp lánh, đen hông, vàng chóe kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ độc đáo, những con cá song như những ngộn đuốc đang lao đi. Nhưng có lẽ hình ảnh đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất là hình ảnh'Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe' lãng mạn, đẹp, ánh trăng như vỡ tan ra thành muôn nghìn ánh bạc khi đuôi cá đập vào mặt nước. 'Đêm thở sao lùa nước hạ long' là một hình ảnh nhân hóa rất đẹp. 'Đêm được miêu tả như một một sinh vật đại dương. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa nước với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hố thúc của thiên nhiên. Trí tưởng tượng của nhà thơ thật phong phú khi xây dựng một hình ảnh đảo ngữ:sao lùa nước. Thực ra sóng biển đu đưa lùa ánh sao trời nơi đáy nước. Chính sáng tạo nghệ thuật ấy của tác giả đã khiên sthieen nhiên thêm sinh đôngj, làm nên một bức tranh hòa nhịp kì diệu giữa thiên nhiên với con người.
Bài thơ mở đầu bằng bốn dòng thơ ngắn, Nguyễn Duy như đã tìm về với tuổi thơ mình:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ.
Câu thơ làm sông dậy hình ảnh cậu bé hồn nhiên, lớn lên nơi ruộng, đồng, sông, bể. Rồi cậu bé ấy lớn lên, trở thành người chiến sĩ. Chữ “hồi” được lặp lại như một ranh giới giữa những tháng ngày ấu thơ và lúc trưởng thành, cảnh vật theo dòng ngày tháng đã đổi thay nhưng vầng trăng vẫn còn đó, là gạch nối vắt qua giữa hai thời và con người đã xem trăng là bạn tri kỉ. Vầng trăng trở nên bình dị, gần gũi, gắn chặt với những gì thân thương nhất của làng quê Việt Nam:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Có phải chăng trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, con người ta sống và đối xử với nhau chân thành hơn, vị tha hơn. Đó lá cái thời sống hồn nhiên, trong sáng như cây cỏ, không biết dối trá, giả tạo. Những tình cảm tự nhiên, chân thực thì sẽ vững bền theo dòng thời gian. Mối quan hệ thắm thiết giữa người và trăng làm cho nhân vật trữ tình tự khẳng định một tâm niệm:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã trở nên thân thương gắn bó với con người.Nếu vị thi tiên Lí Bạch khi xa quê đã không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “TRăng vào cửa sổ đòi thơ”thì Nguyễn Duy_nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế
Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên,trôi chảy về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành,1 không gian thân thương: đồng, sông, bể.Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm say mê,sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông, bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của con người.Thời gian không ngừng vận động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn,lúc này người và trăng lại càng gắn bó _ánh trăng là bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng chiến tranh của tác giả.NHư vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc này alf vầng trăng thật đơn sơ,chung thuỷ.
Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha
Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn,trăng gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần trụi,hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao gìơ quên,cái vầng trăng tình nghĩa” Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời qua khứ vừa mở ra thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3
Từ hồi về thnàh phố
Quen đèn điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương,với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi người ta sống giữa phồn hoa đô thị thig nó lại bị lãng quên.Mấy chục năm về trước Tố Hữu cũng đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ Việt Bắc: Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng
Ánh trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa
Cuộc đời như một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi thế cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn_đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây không chỉ là sự thay thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo trong hình ảnh”Vội bật tung cửa sổ” Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện mà nó vẫn nguyên vẹn như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con người,nó làm sáng lên cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ đầy đến thừa thãi của con người
Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng,một thời kỉ niệm ân tình ngày xưa ùa về “rưng rưng” sống dậy thổn thức,lay động da diết lòng người Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối diện:mặt trăng và mặt người.Hay chính là con người đang đối diện với chí
tham khảo
âu thơ này đã dùng rất nhiều biện pháp nhân hóa để nói lên tinh thần lạc quan yêu đời của từng thành viên trên thuyền. Tác giả còn cho ta thấy sự tấp nập nhưng không thể thiếu đâu đó sự vui vẻ, hạnh phúc xung quan bới đó là sự phấn khích, sự phấn khởi, phấn khởi cho một thời đại mới thời đại mà con người đất nước được đứng lên mà làm chủ đất nước của họ, không phải bị lo quân xâm lược. Các giạt động như " dò bụng biển" có vẻ quá bình thường so với ngày nay, nhưng đối với họ được " dò bụng biển" làm họ rất hạnh phúc vì họ đã bỏ qua công việc này rất lâu rồi. Câu hát của đoàn thuyền thể hiện sự vui quên cả mệt mỏi của những người lao động.
* Khổ 3: Hình ảnh đoàn thuyền được tái hiện chân thực, sinh động hơn:
- Không gian vũ trụ, thiên nhiên bao la rộng mở được mở ra nhiều chiều:
+ Cao: bầu trời, mặt trăng.
+ Rộng: mặt biển.
+ Sâu: lòng biển.
=> Không gian vũ trụ kì bí là không gian nhiều chiều.
- Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá hoàn toàn tương xứng với không gian ấy:
+ Khi sóng biển cồn lên, cánh buồm như chạm vào cả trăng sao, mây trời. “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”.
+ Khi buông lưới con thuyền như dò thấu tận đáy đại dương. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” -> hình ảnh con thuyền vừa lãng mạn, vừa mang tư thế làm chủ.
+ Hệ thống động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn” -> gợi hoạt động và tư thế làm chủ của đoàn thuyền.
+ Hệ thống hình ảnh: “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” -> con thuyền như mang sinh lực của đất trời để đánh cá trên biển.
=> Con người cũng đặt trong cảm hứng vũ trụ.
- Gợi hình tượng người lao động trên biển:
+ Tầm vóc lớn lao sánh cùng vũ trụ.
+ Làm chủ cả vũ trụ.
* Khổ 4, 5: Sự giàu có, phong phú, đẹp đẽ và hào phóng, bao dung của biển cả:
- Liệt kê: “cá nhụ”, “cá chim”…:
+ Là những loài cá quý giá nhất -> sự hào phóng của biển cả.
+ Tô đậm ấn tượng về một vùng biển giàu có với sản vật phong phú.
- Hình ảnh tả thực và so sánh ngầm: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”:
+ Tả thực loài cá song: thân nó dài, có những chấm nhỏ màu đen hồng.
+ So sánh ngầm: Đàn cá song như ngọn đuốc làm sáng cả biển đêm.
=> Trí tưởng tượng phong phú và niềm tự hào vô bờ của tác giả. Khẳng định sự giàu có, phong phú của biển cả.
- Đại từ “em” -> nhân hóa câu thơ:
+ Cá không phải là đối tượng để đánh bắt mà là đối tượng để chinh phục.
+ Gợi hành trình chinh phục tự nhiên của con người.
=> “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” gợi ra một đêm trăng đẹp, ánh trăng thếp đầy mặt biển.
- Nhân hóa: “đêm thở”, “sao lùa” -> Vẻ đẹp của đêm trăng trên biển huyền ảo, thơ mộng.
- So sánh “như lòng mẹ”: Đại dương hóa ra đâu có vô tri mà cao cả như con người.
+ Là “nguồn sữa”, nguồn tài nguyên khổng lồ nuôi sống con người.
+ Ấm áp, bao dung, gần gũi, yêu thương con người như lòng mẹ.
-> Ẩn sau những câu thơ này là niềm hạnh phúc và lòng biết ơn của con người đối với ân tình của thiên nhiên, đất nước.
* Khổ 6: Khung cảnh lao động hăng say trên biển:
- Hệ thống từ ngữ: “kéo lưới”, “lưới xếp”, “buồm lên”…-> cảnh đánh cá.
- Cảnh được tái hiện:
+ Từ khúc hát lao động mê say: bài ca gọi cá vừa gợi nhịp điệu của một cuộc sống lao động đầy niềm vui, gợi tâm hồn phóng khoáng và yêu lao động của người dân chài.
+ Từ hình ảnh “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” gợi vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của người dân chài lưới, thân hình kì vĩ sánh ngang đất trời.
+ Từ những khoang thuyền đầy ắp cá (vẩy bạc, đuôi vàng) ta thấy được sự quý giá.
=> Qua đó ta thấy:
- Bức tranh thiên nhiên lộng lẫy, kì vĩ.
- Sự giàu có, hào phóng hào phóng của biển.
- Hình tượng người lao động bình dị mà lớn lao, phi thường.
Trong đoạn thơ trên, tác giả đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, lung linh huyền ảo. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, màu sắc khác nhau tạo nên một lễ hội ánh sáng dưới lòng biển đêm.Tất cả đã làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương, biển cả như sống động hẳn lên trong màn đêm. Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc mà còn ở âm thanh. Đó chính là tiếng sóng vỗ dạt dào va đập vào mạn thuyền, mỗi nhịp sóng vỗ tưởng như có bàn tay nào đó đang " lùa vào nước Hạ Long". Có thể nói, bằng chính tâm hôn tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, của đất trời và làm nên sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật.