Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
triều đình nhà nguyễn đã kí tất cả 4 bản hiệp ước
1. hiệp ước Bắc Kinh ( 25-10-1860)
2. hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862)
3. hiệp ước Giap Tuất (15-3-1874)
4. hiệp ước Hác -Măng(25-8-1883)
Pháp xâm lược nước ta vì nước ta ko chấp nhận cho tôn giáo của nước Pháp phát triển ở nước ta
Tham khảo:
1. Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862)
2. Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874)
3. Hiệp ước Hác - măng (25/8/1883)
4. Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6/6/1884)
*Nhận xét:
- Các hiệp ước vi phạm trắng trợn độc lập, chủ quyền của dân tộc ta.
- Về căn bản nước ta mất quyền tự chủ trên phạm vi toàn quốc.
- Nước Việt Nam bị chia cắt thành ba miền với chế độ cai trị khác nhau
- Phạm vi chủ quyền của triều đình Huế bị thu hẹp chỉ còn ở Trung Kì (từ Quảng Trị trở vào và từ Ninh Thuận trở ra).
Các bản hiệp ước triều đình nhà Nguyễn đã kí với Pháp:
-Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862): Triều đình thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở 3 tỉnh ở Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn; mở 3 cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên) cho Pháp buôn bán; cho phép Pháp và TBN truyền đạo; bồi thường chiến phí cho Pháp; Pháp "trả lại" thành Vĩnh Long nếu triều đình buộc dân chúng ngừng kháng chiến.
-Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874): Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, triều đình thì chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc về Pháp.
-Hiệp ước Quý Mùi (25/8/1883): Triều đình chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì, Trung Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra Trung Kì và nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp. 3 tỉnh Nghệ Tĩnh được nhập vào Bắc Kì. Triều đình chỉ cai quản vùng Trung Kì nhưng phải thông qua Pháp:....
-Hiệp ước Pa tơ nốt (6/6/1884): đã chấm dứt sự tồn tại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách 1 quốc gia độc lập, thay vào chế độ nửa phong kiến nửa thuộc địa.
Ý 1:
Nguyên nhân chính dẫn đến việc triều đình nhà Nguyễn phải ký kết hiệp ước là do ở ngoài Bắc Kỳ có quân nổi dậy của Lê Duy Phụng và đồ đảng là Trường. Tình hình ngày càng nguy cấp khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng các trận nên cũng lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên đã đồng ý ký kết hòa ước Nhâm Tuất với Pháp.
Ý 2:
Ngày 5-6-1862, triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thừa nhận cho Pháp cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn.
- Mở ba cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên) cho Pháp vào buôn bán.
- Cho phép người Pháp và người Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây.
- Bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 280 vạn lạng bạc.
- Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình Huế với điều kiện triều đình buộc được nhân dân ta ngừng kháng chiến chống lại thực dân Pháp.
Ý 3:
Thái độ của triều đình Huế : nhu nhược trước thực dân Pháp ; hoang mang, chỉ biết thương lương với Pháp để có thể giữ nước.
- Nhà Nguyễn nhu nhược, không tự mình đứng lên vùng dậy
- Khi nhân dân nổi dậy đấu tranh, con sai binh lính đàn áp
=> Ngu dốt, nhu nhược & hèn hạ
- Đây là hiệp ước vô cùng bất lợi cho nhân dân ta, vi phạm lãnh thổ VN
- Triều Nguyễn đã mất đi một nửa vựa lúa lớn nhất nước ta. Đồng thời nó cũng mở cửa biển tạo điều kiện cho Pháp dễ dàng đưa quân sang tấn công ta nhanh hơn.
- Việc bồi thường làm cho lực lượng trong nước càng yếu hơn, nghèo hơn.
- Nhà Nguyễn bị Pháp đánh trúng tâm lí nên đã mắc mưu là sẽ ”trả lại” thành Vĩnh Long. Hiệp ước đã chứng tỏ sự nhu nhược, hèn nhát, không chủ động tấn công địch của triều đình nhà Nguyễn, bước đầu nhà Nguyễn đã đầu hàng Thực dân Pháp.
- Triều đình nhà Nguyễn vì quyền lợi quên đi nền độc lập của dân tộc, đồng thời chỉ lo cho sự an nguy của gia tộc chứ không nghĩ tới hậu quả và không có lòng tin vào nhân dân. Tâm lý sợ địch, không biết sử dụng sức mạnh của nhân dân để kháng chiến chống Pháp.
- Hiệp ước được xem là văn kiện bán nước đầu tiên của triều Nguyễn cũng là cơ sở cho thực dân Pháp xâm lược nước ta lâu dài
Từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược. Điều này thể hiện lần lượt qua nội dung các hiệp ước mà triều đình kí với Pháp:
- Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862): thừa nhận sự cai quản của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán,...
- Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874): chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
- Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883): Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.
- Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6-6-1884): Triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp.
=> Như vậy, qua những hiệp ước trên, ta thấy quá trình triều đình Huế từ chỗ cắt từng bộ phận lãnh thổ rồi đi đến thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta. Thông qua các Hiệp ước cho thấy: các điều khoản, điều kiện này càng nặng nề, tính chất thỏa hiệp, đầu hàng ngày một nghiêm trọng hơn.
=> Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.