Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đề 1:
I. Cuộc đời
- 1380 – 1442
- Tên hiệu: Ức Trai
- Quê quán: quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Sau đó dời đến làng Nhị Khê, thuộc Thường Tín, Hà Nội.
-Xuất thân trong một gia đình danh giá, cả họ nội và họ ngoại đều có truyền thống yêu nước và truyền thống văn hóa văn học.
+ Cha là Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh. Đã từng đỗ Thái học sinh (tương đương Tiến sĩ) dưới thời nhà Trần.
+ Mẹ là Trần Thư Thái, con của quan tư đồ Trần Nguyên Đán.
-Những sự kiện lớn trong cuộc đời Nguyễn Trãi:
+ Thuở nhỏ chịu rất nhiều mất mát:
_ 5 tuổi: mẹ mất
_ 10 tuổi: ông ngoại qua đời
+ 1400: thi đỗ Thái học sinh
->2 cha con ra làm quan dưới triều nhà Hồ.
+ 1407: giặc Minh xâm lược, bắt Hồ Quý Ly cùng với một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh.
->Nguyễn Trãi thực hiện nguyên tắc đạo hiếu, đi theo cha đến tận cửa ải mong muốn thực hiện chữ hiếu. Nhưng cha dặn trở về lập chí trả thù cho nước, rửa nhục cho cha, như thế mới là đại hiếu
-> Nguyễn Trại bị giam lỏng ở thành Đông Quan.
+ Thời đại chống giặc Minh: Nguyễn Trãi trốn thoát khỏi thành Đông Quan, tìm đến Lam Sơn, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn.
->Nguyễn Trãi là cánh tay đắc lực của Lê Lợi, góp công lớn vào chiến thắng giặc Minh.
-> Cuối 1427, đầu 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để thông báo chiến thắng giặc Minh
+ Thời đại khủng hoảng của triều đại phong kiến.
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi rất hăm hở giúp dựng xây đất nước nhưng thái bình không lâu
->Mâu thuẫn nội bộ
-> Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời
-> Bất đắc chí, thậm chí bị bắt giam rồi lại được tha.
1439: xin về ở ẩn
1440 được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Trong lúc cũng đang hăng hái cống hiến thì xảy ra thảm án.
1442 xảy ra thảm án Lệ Chi Viên. Nhà vua trong chuyến du hành, ghé qua vườn vải của Nguyễn Trãi nghỉ đêm tại đây. Trong đêm đó, nhà vua bị cảm qua đời. Triều thần trong triều đình lập mưu vu oan cho Nguyễn Thị Lộ là người thiếp yêu của Nguyễn Trãi. Nguyễn Thị Lộ vốn là người vừa có tài vừa có sắc, Nguyễn Trãi lấy Nguyễn Thị Lộ năm ông 26 tuổi, bà 16 tuổi.
Nguyễn Thị Lộ được nhà vua sủng ái, phong chức lễ nghi học sĩ, để dạy nghi lễ cho cung nữ và đọc sách cho nhà vua.
->kết cục bi thảm: chu di tam tộc.
Đến nay vẫn tiếp tục nghiên cứu vụ án này. Có nhiều tài liệu khác nhau, có hai cách giải thích nổi bật.
+ Rắn báo oán: Nguyễn Thị Lộ là hiện thân của con rắn nên khi sinh ra có vảy ở bên sườn. Cha của Nguyễn Trãi sau khi đỗ đạt, về nhà dọn dẹp để mở lớp dạy học. Ông đã có một giấc mơ kì lạ: Có một người phụ nữ dẫn con đến, xin hãy thư thư cho vài hôm dọn nhà xong thì hãy dọn vườn. Nhưng Nguyễn Phi Khanh không để ý đến giấc mơ này, hôm sau học trò của ông vẫn dọn vườn và vô tình giết chết một ổ rắn con.
Khi Nguyễn Phi Khanh đọc sách, có một giọt máu của con rắn rơi từ xà nhà rơi xuống trúng chữ “tộc”, thấm qua bat rang. -> Nguyễn Thị Lộ là con rắn mẹ quay trở lại báo thù.
+ Xuất phát từ mối quan hệ trước đó giữa Nguyễn Trãi và Lê Thị Anh – hoàng hậu vợ nhà vua. Lê Thị Anh sinh ra con trai là Lê Nhân Tông, được phong là Thái tử. Trong lúc đó một người thiếp khác của vua là Ngoo Thị Ngọc Giao cũng mang bầu, nằm mơ thấy ngôi sao rơi vào bụng. Nghĩa là sẽ sinh ra một người cũng có thể nối nghiệp ngôi vua. Lê Thị Anh đã tìm cách để hãm hại Ngô Thị Ngọc Giao. Nhân khi ấy có một người thiếp khác dùng bùa chú để mong có con, Lê Thi Anh đã đổ vạ bùa chú ấy do Ngô Thị Ngọc Giao làm với mục đích giết vua -> bị voi giày đến chết.
Nguyễn Trãi biết chuyện đã nói với Nguyễn Thị Lộ để bà vào can gián với nhà vua, không giết Ngô Thị Ngọc Giao, bà được đưa đi ở nơi khác. Sau này sinh ra người con là Lê Tư Thành, chính là vua Lê Thánh Tông.
->Nguyễn Trãi gây ra mối hằn thù với Lê Thị Anh và Lê Thị Anh tìm cách trả thù.
1464: vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi
II. Sự nghiệp thơ văn
1.Những tác phẩm chính
Tuy số lượng tác phẩm hiện còn khá lớn nhưng đó chỉ là số lượng ít ỏi trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi vì sau thảm án, tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy. Đến 1467 vua Lê Thánh Tông mới truyền lệnh sưu tầm lại những tác phẩm của ông nhưng bị thất lạc nhiều.
Để lại số lượng lớn ở các lính vực
- Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục
- Quân sự, chính luận:
+Quân trung từ mệnh tập (tập hợp những thư từ, chiếu biểu gửi cho các tướng giặc)
+ Bình Ngô đại cáo.
- Địa lí: Dư địa chí – được đánh giá là cuốn sách địa lí cổ nhất của Việt Nam.
- Văn học
+ Chữ Hán: Ức Trai thi tập
+ Chữ Nôm: Quốc âm thi tập – tập thơ viết bằng ngôn ngữ tiếng Việt đầu tiên của văn học dân tộc
->tập thơ đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt.
2. Nguyễn Trãi – nhà văn chính luận kiệt xuất
- Trước Nguyễn Trãi, chúng ta chỉ có những tác phẩm chính luận xuất sắc, đến Nguyễn Trãi mới có nhà văn chính luận xuất sắc
- Số lượng tác phẩm khá lớn
- Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt: Nhân nghĩa, yêu nước, thương dân
- Đặc sắc nghệ thuật: kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng linh hoạt các bút pháp tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng.
=> Những áng văn chính luận mẫu mực.
3. Nguyễn Trãi – nhà thơ trữ tình sâu sắc
- Tác phẩm hiện còn: 2 tập thơ
- Giá trị nội dung: ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng lỗi lạc, vừa là con người trần thế
+ Người anh hùng vĩ đại:
_ Lí tưởng của người anh hùng: hòa quyện giữa nhân nghĩa và yêu nước thương dân
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng
_ Ý chí chống ngoại xâm và chống lại cường quyền, bạo lực
_ Phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử: dáng ngay thẳng của cây trúc, vẻ thanh tao, trong trẻo của cây mai, sức sống khỏe khoắn của cây tùng
=>Những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử hướng đến mục đích giúp nước giúp dân
+ Con người trần thế, đời thường bình dị:
_ Mang nỗi đau của con người bình thường
++ đau đớn trước nghịch cảnh của xã hội cũ.
++ Đau đớn trước thói đời đen bạc
Ví dụ:
- Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
- Bui một lòng người cực hiểm thay
_Yêu lòng yêu của con người bình thường
++ Yêu thiên nhiên
Ví dụ:
- Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáo gươm chìm gãy bão bao tầng
(Cửa biển Bạch Đằng)
- Những hình ảnh lảnh mồng tơi, cây núc nác
++ Tình nghĩa vua tôi, cha con, bạn bè sâu nặng
=>Con người trần thế trong người anh hùng đã giúp nâng tầm người anh hùng dân tộc lên người anh hùng nhân loại.
*** Kết luận:
-Nguyễn Trãi là một hiện tượng văn học, kết tinh những thành tựu của văn học Lí Trần, vừa mở đường cho giai đoạn phát triển mới.
- Nội dung: Văn chương của Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của dân tộc là yêu nước và nhân đạo.
- Nghệ thuật: có đóng góp về thể loại và ngôn ngữ.
Đề 2:
1. Nêu luận đề chính nghĩa a, Tư tưởng nhân nghĩa - Tư tưởng nhân nghĩa vốn của Nho giáo, đề cao mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Chữ “Nhân” của Khổng Tử, chữ “Nghĩa” của Mạnh Tử từ lâu đã trở thành nguyên lí đạo đức và chính trị để giai cấp phong kiến xác lập địa vị thống trị với nhân dân. Chính vì vậy, nó gắn liền với tư tưởng trung quân ái quốc.
|
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình Ngô”, tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân”. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “việc” cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”-.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội án “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt. “Quân điểu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Thế mà nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh bình”... đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để “xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quôc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lẩy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
1. Hai câu đầu: Tư tưởng nhân nghĩa
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Tư tưởng nhân nghĩa là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản). Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh. Từ triết lí nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã cụ thể hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường lối, chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc. Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
2. Khẳng định độc lập, chủ quyền của quốc gia độc lập
- Nước Đại Việt ta: khẳng định chủ quyền trên mọi phương diện:
+Nền văn hiến – bề dày lịch sử
+Núi sông bờ cõi – lãnh thổ.
+Những triều đại – sự phát triển của dân tộc.
+Yếu tố con người – tài năng/ hào kiệt
+Phong tục tập quán – văn hóa.
=> Cơ sở đưa ra chủ quyền dân tộc rộng lớn, có chiều sâu hơn rất nhiều.
1. Khái quát
- Giới thiệu vị trí, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.
- Chí làm trai của người quân tử thời xưa là gì? Là kinh bang tế thế, là rong ruổi bốn phương tám hướng để thực hiện trí nam nhi, sống cho thỏa cho xứng và đúng là bậc quân tử, đại trượng phu.
- Chí làm trai của người anh hùng Từ Hải trong trích đoạn "Chí khí anh hùng"
2. Cụ thể
a. Phân tích chí làm trai của người anh hùng Từ Hải:
- Tuy rất yêu Kiều và mới "nửa năm hương lửa đương nồng" nhưng Từ Hải quyết dứt chữ tình để thực hiện chí làm trai.
- Chí làm trai của Từ Hải không phải là cầu cạnh kinh lễ để thăng tiến theo con đường làm quan. Mà Từ Hải thực hiện chí làm trai bằng cách có chí hướng riêng (thậm chí bị coi là tay giặc cỏ chống lại triều đình). Từ Hải đứng về phía nhân dân, chống lại những nhũng nhiễu của bọn quan lại triều đình thối nát.
Phân tích các câu, hình ảnh trong bài thể hiện chí làm trai: "Theo càng thêm bận biết là đi đâu/ Đành rằng chờ đó ít lâu/ Chầy chăng là một năm sau vội gì/ Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm phơi"
=> Ra đi dứt khoát vì nghĩa lớn.
b. So sánh:
- Giống: Chí làm trai của Từ Hải và trong câu thơ của Nguyễn Công Chứ đều là khát vọng lớn được ghi danh, được lập chiến công trong trời đất.
- Khác: Người anh hùng Từ Hải không chỉ là người có chí lớn mà còn là người có tình sâu. Tình cảm sâu đậm ấy là động lớn lớn để Từ Hải thực hiện tráng trí nam nhi của mình.
1. Tự sự, biểu cảm
2. - Quốc hiệu
- Văn hiến
- Lãnh thổ
- Phong tục
- Triều đại
- Nhân tài
3. Phát triển các yếu tố khác ngoài cương vực lãnh thổ
- Xác định cốt yếu nhất là văn hiến.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn trãi là lấy dân làm gốc rễ. Muốn dân được ấm no và hạnh phúc, xã hội thái bình, thịnh vượng trước hết, phải làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, vì dân mà đánh kẻ hung tàn. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Bài viết đã phân tích tư tưởng nhân nghĩa trên nhiều khía cạnh: nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Bạn tham khảo để lập dàn ý