Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu hỏi 1. Căn cứ vào các chỉ dẫn (những chữ được in nghiêng trong văn bản), cho biết lớp kịch gồm mấy cảnh. Xem xét số lượng nhân vât tham gia ở mỗi cảnh và các loại động tác, âm thanh trên sân khấu để chứng minh rằng càng về sau kịch càng sôi động.
Hành động kịch diễn ra tại phòng khách nhà ông Giuốc-đanh, tuổi ngoài bốn mươi, thuộc tầng lớp dân thành thị phong lưu. Ông Giuốc-đanh tiếp một bác phó may và một tay thợ phụ mang bộ lễ phục đến nhà ông.
Lớp kịch được chia thành hai cảnh :
- Cảnh đầu có bốn nhân vật ông Giuốc-đanh, bác phó may, tay thợ phụ mang bộ lễ phục và một gia nhân của ông Giuốc-đanh. Cảnh này, nhân vật ít hơn và chủ yếu là lời thoại của ông Giuốc-đanh và bác phó may.
- Cảnh hai nhộn nhịp hơn cảnh trước bởi vì ngoài bốn nhân vật vẫn có mặt ở cảnh đầu còn thêm bốn tay thợ phụ nữa. Cảnh hai, mặc dù chỉ có hai nhân vật nói với nhau là ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ (người mang lễ phục đến), nhưng ta hình dung cả bốn tay thợ phụ kia cũng xúm xít vây quanh, dò vậy ông Giuốc- đanh như là nói với cả tốp thợ năm người. Hơn nữa, cảnh trước chủ yếu chỉ là những lời đối thoại, cảnh sau, ngoài đối thoại còn có các cử chỉ, động tác, âm thanh : các thợ phụ cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuốc-đanh, cảnh nhảy múa và âm nhạc rộn ràng. Do vậy, cảnh này sôi động hơn cảnh trước.
Câu hỏi 2. Ở cảnh đầu, tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh thể hiện như thế nào và bị lợi dụng ra sao ?
Ở cảnh đầu, cuộc đối thoại giữa ông Giuốc-đanh và bác phó may xoay quanh một số sự việc như đôi bít tất, đôi giày, bộ tóc giả, lông đính mũ nhưng chủ yếu nói về bộ lễ phục.
Tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh thể hiện rất rõ trong viộc học đòi cách ăn mặc của những bậc quý phái.
Lẽ thường may áo bao giờ người ta cũng may hoa hướng lên trên, nhưng không biết vì sơ suất, vì dốt nát hay cố tình mà bác phó may đã may ngược hoa. Ông Giuốc-đanh nhanh chóng nhận ra điều đó và chê trách bác phó may. Bác phó may đã nhanh trí bịa ra chuyện những người quý phái đều mặc áo ngược hoa hết. Để được coi là quý phái, ông Giuốc-đanh ưng thuận mặc áo ngược hoa :
Ông Giuốc-đanh - Lại cần phải bảo may hoa xuôi ư ?
Phó may - Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả.
Ông Giuốc-đanh - Ồ ! Thế thì bộ áo này may được đấy.
Phó may - Nếu ngài muốn thì tôi sẽ may hoa xuôi lại thôi mà.
Ông Giuốc-đanh - Không, không.
Phó may - Xin ngài cứ việc bảo.
Ông Giuốc-đanh - Tôi đã hảo không mà. Bác may thế này được rồi...
Bác phó may đang ở thế bị động (bị chê may áo ngược hoa) chuyển sang thế chủ động tấn công lại ông Giuốc-đanh bằng hai đề nghị : “Nêu ngài muốn thì tôi sè may hoa xuôi lại thôi mà", “Xin ngài cứ việc bảo". Ông Giuốc-đanh trở thành người bị động: “Không, không.", “Tôi đã bảo không mà. Bác may thế này được rối...". Ông Giuốc-đanh lùi dần từng bước, sau đó nói lảng sang chuyện khác, hỏi bộ lễ phục ông mặc có vừa không: “Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không ?". Đây là đoạn có kịch tính cao.
Ông Giuốc-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình để may áo cho bác, ông chuyển sang thế chủ động bằng hai lời thoại : “Ô kìa, bác phó ! Vài này là thứ hàng tôi đưa bác may hộ lễ phục trước cửa tôi dây mà. Tôi nhận ra đúng nó rồi", “Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải". Bác phó may chống đỡ yếu ớt. Bí thế, bác lảng sang chuyện khác : bác hỏi ông Giuốc-đanh có muốn mặc thử bộ lễ phục không. Vì đang muốn học làm sang nên ông Giuốc-đanh chấp nhận ngay lời đề nghị của bác phó may và quên chuyện bác phó may ăn bớt vải của mình. Đây là nước cờ cao tay của bác phó may vì nó đánh trúng vào tâm lí đang muốn học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh.
Câu hỏi 3. Tinh cách đó của ông thế hiện như thế nào và bị lợi dụng ra sao ở cảnh sau?
Cảnh ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ đối thoại thể hiện tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh ở một khía cạnh khác. Khi ông Giuốc-đanh mặc xong bộ lễ phục, tay thợ phụ tôn ông Giuốc-đanh là “ông lớn” ngay, khiến ông tưởng cứ mặc lễ phục vào là nghiêm nhiên trở thành quý phái. Tay thợ phụ dùng mánh khóe xu nịnh để moi tiền ông, điểm đúng huyệt thích học làm sang của ông. Thấy ông mắc mưu nên tay thợ phụ tôn ông lên mỗi lần một bậc chỉ bằng các từ “ông lớn”, “cụ lớn”, “đức ông” và mỗi lần như thế ông đều ban thưởng tiển cho lay thợ phụ.
Ông Giuốc-đanh thấy mình không tôn minh lên nữa thì nói riêng : "Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi". Rõ ràng, thói trưởng giả học làm sang của ông vẫn còn mãnh liệt lắm. Ông sẵn sàng cho hết cả tiền để được coi là người quý phái.
Câu hỏi 4. Lớp kịch này gây cười cho khán giả ở những khía cạnh nào ?
Lớp hài kịch đem đến cho khán giả những trận cười thoải mái. Khán giả cười ông Giuốc-đanh ngu dốt, chỉ thích học làm sang, để cho thầy trò bác thợ may lợi dụng kiếm chác; cười ông ngớ ngẩn tưởng rằng mặc áo hoa ngược thì mới sang trọng, cười vì ông cứ phải vì mấy cái danh hão mà mất tiền cho bọn lừa bịp. Khán giả còn cười khi thấy cái cảnh ông bị bốn tay thợ phụ lột quần áo ra mặc cho oộ lễ phục lố lăng rồi nhảy theo điệu nhạc mà vênh vang cứ tưởng đó là bộ lễ phục của người quý phái.
trả lời :
Lớp kịch được chia thành hai cảnh : - Cảnh đầu có bốn nhân vật ông Giuốc-đanh, bác phó may, tay thợ phụ mang bộ lễ phục và một gia nhân của ông Giuốc-đanh. Cảnh này, nhân vật ít hơn và chủ yếu là lời thoại của ông Giuốc-đanh và bác phó may. - Cảnh hai nhộn nhịp hơn cảnh trước bởi vì ngoài bốn nhân vật vẫn có mặt ở cảnh đầu còn thêm bốn tay thợ phụ nữa. Cảnh hai, mặc dù chỉ có hai nhân vật nói với nhau là ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ (người mang lễ phục đến), nhưng ta hình dung cả bốn tay thợ phụ kia cũng xúm xít vây quanh, dò vậy ông Giuốc- đanh như là nói với cả tốp thợ năm người. Hơn nữa, cảnh trước chủ yếu chỉ là những lời đối thoại, cảnh sau, ngoài đối thoại còn có các cử chỉ, động tác, âm thanh : các thợ phụ cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuốc-đanh, cảnh nhảy múa và âm nhạc rộn ràng. Do vậy, cảnh này sôi động hơn cảnh trước.
hok tốt
- Luận điểm: Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm.
- Tác giả đã trình bày các luận cứ:
+ Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới gần gũi với mỗi con người.
- Hai luận cứ trên được trình bày theo một trật tự hợp lý. Tác giả xuất phát từ sự thấu hiểu Tế Hanh (tinh tế, có thể nghe những điều không hình sắc, âm thanh).
+ Nhận định cũng rất chính xác về chất thơ Tế Hanh: đưa ta vào thế giới gần gũi mà ta chỉ cảm thấy một cách mờ mờ.
+ Luận cứ thứ hai là hệ quả của luận cứ thứ nhất, điều này tạo được sự logic, hợp lý
1. Bài thơ Khi con tu hú - Tác giả: Tố Hữu.
Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được sáng tác vào tháng 7 năm 1919.
- Khi tác giả bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ.
Thể thơ: lục bát
2. Ý nghĩa nhan đề
- Đây là một trạng ngữ chỉ thời gian, là một hoán dụ như một tín hiệu báo hiệu mùa hè rực rỡ, tưng bừng sức sống đã đến.
- Tiếng chim tu hú tác động mạnh mẽ đến tâm hồn người tù, gợi ra bức tranh của cuộc sống tươi đẹp bên ngoài song sắt.
3. Bài thơ thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do đến cháy bỏng của người tù chiến sĩ Cách mạng trong cảnh tù đày, đồng thời tố cáo tội ác của các thế lực bạo tàn, giam hãm, trói buộc con người trong cảnh tù đày.
4. Tiếng chim tu hú xuất hiện hai lần:
+ Nếu như tiếng chim tu hú ở những câu thơ đầu là tiếng gọi náo nức của bức tranh mùa hè thì tiếng chim tu hú ở cuối tác phẩm như một niềm ám ảnh, gợi niềm nhức nhối, bực bội đến đau khổ.
+ Nhưng hai âm thanh ấy, tiếng chim tu hú ở đầu và cuối bài thơ đều vang lên từ thế giới của tự do, của cuộc sống.
- Lớp kịch được chia thành hai cảnh:
+ Cảnh 1: Lời thoại của ông Giuốc- đanh và bác phó may.
+ Cảnh sau: Đối thoại giữa ông Giuốc- đanh và tay thợ phụ.
- Số lượng nhân vật xuất hiện trong từng cảnh:
+ Cảnh 1: Sân khấu xuất hiện bốn nhân vật: ông Giuốc- đanh, bác phó may, gia nhân, thợ phụ mang lễ phục.
+ Cảnh 2: Ông Giuốc- đanh, thợ phụ, bốn tên thợ phụ giúp ông Giuốc đanh mặc lễ phục.
- Không khí kịch càng về sau càng sôi động, đến cuối cảnh thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt.
Tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc đanh thể hiện qua đoạn đối thoại với bác phó may:
+ Chuyện về đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ rồi tới bộ lễ phục mới với bông hoa ngược.
+ Ông Giuốc- đanh phát hiện ra lỗi trên bộ lễ phục nhưng bác phó may lại lấp liếm chuyện đó: " người quý phái đều mặc như thế này".
+ Vì muốn học làm sang nên ông Giuốc đanh thấy hoàn toàn hợp lý trước ý kiến của bác phó may.
+ Bác phó may xin may hoa xuôi thì bị ông Giuốc đanh từ chối vì sợ làm tuột lỡ cơ hội làm sang.
+ Ông Giuốc đanh phát hiện ra phó may ăn bớt vải nhưng bác thợ phụ hướng đông Giuốc đanh tới bộ lễ phục là ông quên ngay.
+ Bác phó may lại quá tự tin khi mặc đúng cái áo bằng vải ăn bớt của ông Giuốc đanh đến nhà ông.
→ Tham vọng muốn bước chân vào giới thượng lưu, công thêm sự ngu dốt thiếu hiểu biết của ông Giuốc đanh đã đẩy ông tới chỗ bị lừa bịp và trở thành trò cười.
Sang cảnh sau tính cách trưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc đanh tiếp tục được bộc lộ dần.
+ Thợ phụ gọi Giuốc đanh là ông lớn, đúng lúc ông đang mặc lễ phục say sưa và có cảm giác trở thành quý phái.
+ Thợ phụ liên tục gọi ông Giuốc đanh là "ông lớn", "cụ lớn" đều được thưởng tiền.
+ Tay thợ phụ liên tiếp tung ra những câu nịnh nọt để moi tiền, và y đạt được mục đích của mình.
→ Giấc mộng mù quáng muốn bước chân vào giới thượng lưu lớn hơn cả sự tiếc tiền. Tính học đòi làm sang của ông không gì cản được.
Vở kịch gây cười ở sự mất cân bằng đối xứng giữa hình thức với nội dung, giữa cái biểu hiện bên ngoài với cái bên trong.
+ Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng bất hòa giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn với giấc mộng học đòi làm sang.
+ Hàng loạt chi tiết gây cười: bộ lễ phục với bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tung hô, nịnh bợ, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc đanh khi mặc lễ phục.
+ Giấc mơ bước chân vào giới thượng lưu khi không có kiến thức, hiểu biết liên tục đẩy ông Giuốc đanh trở thành người lố bịch.
→ Mô-li-e tài tình trong việc khắc họa tính cách lố lăng của một tay trưởng giả muốn học đòi học làm sang, gây nên tiếng cười sảng khoái cho khán giả.
Câu 1:
Lớp kịch này được chia làm 2 cảnh:
- Ông Giuốc-Đanh và phó may.
- Ông Giuốc-Đanh và thợ phụ.
Cảnh trước trên sân khấu xuất hiện bốn nhân vật (ông Giuốc đanh và một gia nhân, bác phó may và tay thợ phụ mang bộ lễ phục). Cảnh sau xuất hiện thêm bốn tay thợ phụ nữa.
Câu 2:
Cảnh 1: Ông Giuốc-Đanh và bác phó may:
- Hai nhân vật: - Ông Giuốc-Đanh (trưởng giả, ngu dốt nhưng cố tình muốn trở thành tầng lớp quý tộc).
- Bác phó may (láu cá, ăn bớt tiền của Giuốc-Đanh còn ngụy biện, biến báo, ranh mãnh)
- Bộ lễ phục chật, may hoa ngược, bít tất lụa và đôi giày chật.
=> Ông Giuốc-Đanh là người thích ăn diện, muốn làm sang để tỏ vẻ người quý phái nhưng mê muội, ngu dốt, quê kệch, học đòi làm sang.
Câu 3:
=> Ông Giuốc-Đanh vô cùng háo danh, ưa nịnh, khao khát được làm quý tộc. Còn tay thợ phụ thì ranh mãnh, khéo nịnh hót để moi tiền.
Câu 4:
Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tắc cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. Ở lớp kịch này cũng vậy, Mô-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-Đanh, với hàng loạt các tình tiết gây cười,qua đó nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội.
a. Đi bộ ngao du - Ru-xô.
b. Nghị luận
c. Đi bộ ngao du ta có thể tùy theo ý muốn, ngắm nhìn những gì mình thích.
d. Con người tác giả ưa tự do, khám phá.
a. Đoạn trích từ: Đi bộ ngao du, tác giả: Ru-xo
b. PTBĐ: nghị luận
c. Nội dung của văn bản: Đi bộ ngao du có thể đi đâu tùy ý muốn, ngắm nhìn những nơi mình thích
d. Tác giả là con người giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.
- Lớp kịch được chia thành hai cảnh:
+ Cảnh 1: Lời thoại của ông Giuốc- đanh và bác phó may.
+ Cảnh sau: Đối thoại giữa ông Giuốc- đanh và tay thợ phụ.
- Số lượng nhân vật xuất hiện trong từng cảnh:
+ Cảnh 1: Sân khấu xuất hiện bốn nhân vật: ông Giuốc- đanh, bác phó may, gia nhân, thợ phụ mang lễ phục.
+ Cảnh 2: Ông Giuốc- đanh, thợ phụ, bốn tên thợ phụ giúp ông Giuốc đanh mặc lễ phục.
- Không khí kịch càng về sau càng sôi động, đến cuối cảnh thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt.