K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 1 2018

tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần 

26 tháng 7

quan sát ta nhận thấy :

- Mẫu của mỗi phần tử là số thứ tự trong hàng

- Tử số + mẫu số - 1 = số phần tử trong hàng

Ta có : 2016 + 2017 - 1 = 4032

Vậy số \(\dfrac{2016}{2017}\) sẽ nằm hàng thứ 2017 và thứ tự thứ 4032 trong hàng đó tính từ trái sang

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
6 tháng 12 2023

- Các bước nghiên cứu hóa học

   + Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu

   + Bước 2: Nêu giả thuyết khoa học

   + Bước 3: Thực hiện nghiên cứu (lí thuyết, thực nghiệm, ứng dụng)

   + Bước 4: Viết báo cáo: thảo luận kết quả và kết luận vấn đề

1 tháng 10 2017

Đáp án : D

Tính trạng do 2 cặp gen qui định theo qui luật tương tác bổ sung

A-B- = đen

A-bb = aaB- = xám

aabb = trắng

III6 có kiểu hình màu đen (có dạng A-B- ) , song có mẹ có kiểu gen aabb

=> III6 có kiểu gen là AaBb

III7 có bố mẹ là xám (II4) và đen (II5)

          Xét cặp II4 x II5 : xám x đen ó A-bb x A-B-

          Mà đời con có kiểu hình trắng aabb

=> Vậy cặp II4 x II5 là : Aabb x AaBb

=> III7 có dạng (1/3AA : 2/3Aa)Bb

Xét cặp III6 x III7 : AaBb         x        (1/3AA : 2/3Aa)Bb

Xác suất để cặp trên sinh con mà trắng là 1 2 . 1 3 . 1 4   = 1 24  

16 tháng 11 2021

Sơ đồ nguyên lý điện dân dụng dùng để nghiên cứu những nguyên lý hoạt động của các thiết bị điện và mạch điện. Đây là dạng sơ đồ hiển thị ví trí lắp đặt, các lắp ráp giữa các phần tử của mạch điện. Sơ đồ này được sử dụng khi dự trù vật liệu, sửa chữa mạch điện, lắp đặt và các thiết bị điện.

21 tháng 8 2017

Qui trình nghiên cứu khoa học

I- GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ

Để tiến hành nghiên cứu khoa học phải chuẩn bị đầy đủ các mặt cho nghiên cứu. Bước chuẩn bị có một vị trí đặc biệt, nó góp phần quyết định chất lượng của công trình nghiên cứu. Chuẩn bị nghiên cứu bắt đầu từ xác định đề tài và kết thúc ở việc chuẩn bị lập kế hoạch tiến hành nghiên cứu.

Qui trình nghiên cứu khoa học

Một qui trình nghiên cứu khoa học (chỉ mang tính chất minh hoạ cho một qui trình đơn giản nhất)

  1. Xác định đề tài nghiên cứu

1.1. Tầm quan trọng của việc xác định đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khoa học là một hoặc nhiều vấn đề khoa học có chứa nhiều điều chưa biết (hoặc biết chưa đầy đủ) nhưng đã xuất hiện tiền đề và khả năng có thể biết được nhằm giải đáp các vấn đề đặt ra trong khoa học hoặc trong thực tiễn.

Xác định đề tài là tìm vấn đề làm đối tượng nghiên cứu. Vấn đề của khoa học và thực tiễn là vô cùng phong phú, xác định cho mình một vấn đề nghiên cứu không phải là việc làm đơn giản. Xác định đề tài là một khâu then chốt, có ý nghĩa quan trọng đối với người nghiên cứu, vì phát hiện được vấn đề để nghiên cứu nhiều khi còn khó hơn cả giải quyết vấn đề đó và lựa chọn đề tài đôi khi quyết định cả phương hướng chuyên môn trong sự nghiệp của người nghiên cứu. Vì vậy, khi xác định đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu cần chú ý tới các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu.

1.2. Các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu

– Đề tài nghiên cứu phải có ý nghĩa khoa học: bổ sung nội dung lý thuyết của khoa học; làm rõ một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại; xây dựng cơ sở lý thuyết mới hoặc xây dựng nguyên lý các giải pháp khác nhau trong kỹ thuật, công nghệ, tổ chức, quản lý…

– Đề tài phải có tính thực tiễn, thể hiện: xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội; nhu cầu kỹ thuật của sản xuất; nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường…

– Đề tài phải có tính cấp thiết đối với thời điểm tiến hành nghiên cứu. Vấn đề đang là điểm nóng bỏng về giáo dục nghề nghiệp cần phải giải quyết và giải quyết được nó sẽ đem lại giá trị thiết thực cho lý luận và thực tiễn, đóng góp cho sự phát triển của khoa học và đời sống.

1.3 Các điều kiện lựa chọn đề tài nghiên cứu

Thực tiễn giáo dục nghề nghiệp rất phong phú, đa dạng, có thể tìm được rất nhiều đề tài để nghiên cứu. Thực ra số đề tài mà thực tiễn giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi nghiên cứu thì rất nhiều mà số vấn đề có thể chọn làm đề tài nghiên cứu có kết quả thì không nhiều. Có những vấn đề thoạt tiên tưởng nghiên cứu sâu, nhưng khi bắt tay vào mới thấy là khó có khả năng phát triển về lý thuyết hoặc có tác dụng về thực tiễn. Nhiều vấn đề thấy rõ là cần nghiên cứu, nhưng khi đề cập thì chỉ có thể phát biểu tham luận ngắn mà không thành công nghiên cứu sâu được. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi một số điều kiện chủ quan ở người nghiên cứu cũng như điều kiện khách quan ở công tác nghiên cứu.

  • Điều kiện chủ quan

Đề tài phải phù hợp với xu hướng, khả năng, kinh nghiệm của người nghiên cứu. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng phải đứng trước lựa chọn giữa nguyện vọng khoa học của cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội.

  • Điều kiện khách quan của việc nghiên cứu

Phải có đủ điều kiện khách quan đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài như: cơ sở thông tin, tư liệu, phương tiện, thiết bị thí nghiệm ( nếu cần phải tiến hành thí nghiệm), kinh phí cần thiết, quỹ thời gian và thiên hướng khoa học của người hướng dẫn hoặc của người lãnh đạo khoa học, các cộng tác viên có kinh nghiệm…

Các yếu tố trên được coi là những điều kiện cơ bản trong xuất phát điểm của công cuộc nghiên cứu, thiếu một trong những điều kiện trên thì việc nghiên cứu sẽ không đem lại kết quả mong muốn.

Các đề tài có thể được xây dựng từ việc phát hiện của các nhà sư phạm, hay các nhà nghiên cứu cơ sở, cũng có thể do cấp trên đưa tới, cũng có thể do đấu thầu mà dành được.

Có những đề tài độc lập, có đề tài tạo thành nhóm hay một chương trình nghiên cứu, cấp quốc gia, cấp bộ, nghành. Đăng ký đề tài là việc tự ý thức về khả năng và những điều kiện của cơ sở có thể thành công.

1.4. Một số vấn đề cụ thể trong việc xác định đề tài nghiên cứu

  1. Kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu lý luận và việc nghiên cứu giáo dục nghề nghiệp nói riêng
  2. Xác định tính chất của đề tài nghiên cứu

Tuỳ theo tính chất của đề tài, ta có thể có đề tài mang tính chất điều tra, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu cơ bản, thực nghiệm, tính hỗn hợp. Mỗi loại đề tài trên đều gồm những bước tiến hành nhất định, theo những trình tự và tính kế tục xác định.

  • Xác định lịch sử vấn đề nghiên cứu

Khi lựa chọn đề tài, người nghiên cứu cần xác định lịch sử vấn đề nghiên cứu để phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhằm xác định rõ mức độ nghiên cứu của các công trình đi trước,chỉ ra những mặt còn hạn chế, xác định những điều đề tài có thể kế thừa bổ xung phát triển… để chứng minh và đề xuất nghiên cứu đề tài nghiên cứu mới không lặp lại kết quả đã nghiên cứu trước đã công bố.

  • Xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung nghiên cứu. Xác định phạm vi nghiên cứu là xác định giới hạn về không gian của đối tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian để tiến hành nghiên cứu và giới hạn quy mô nghiên cứu được xử lý. Xác định được phạm vi nghiên cứu của đề tài giúp cho việc nghiên cứu đi đúng hướng, không lệch trọng tâm.

  • Phát biểu đề tài nghiên cứu

Vấn đề khoa học một khi đã được chủ thể chọn làm đối tượng nghiên cứu sẽ trở thành đề tài nghiên cứu và sau khi đã làm rõ mọi vấn đề liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thì đề tài được đặt tên, tức là phát biểu thành tên gọi.

Tên đề tài nghiên cứu là lời văn diễn đạt mô hình tư duy của kết quả dự kiến của quá trình nghiên cứu dưới dạng súc tích. Tên đề tài cũng diễn đạt lòng mong muốn của người nghiên cứu tác động vào đối tượng, cải tiến nó để cuối cùng đi đến những mục tiêu dự kiến.

Tên đề tài phải gọn, rõ, có nội dung xác định. Tên đề tài phải súc tích, ít chữ nhất nhưng nhiều thông tin nhất, chứa đựng vấn đề nghiên cứu, nó phản ánh cô đọng nhất nội dung nghiên cứu, chỉ được mang một ý nghĩa hết sức khúc chiết, đơn trị, không được phép hiểu nhiều nghĩa.

Tên đề tài được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp bao quát được đối tượng và hàm chứa nội dung và phạm vi nghiên cứu. Tránh đặt tên đề tài bằng những cụm từ mang nhiều tính bất định như “một số vấn đề…”, “ vài suy nghĩ về…”, “góp phần vào…”….

  1. Xây dựng đề cương nghiên cứu

2.1 Tầm quan trọng của việc xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học

Khi tiến hành nghiên cứu một đề tài khoa học thì một thao tác rất quan trọng là phải xây dựng một đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là văn bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình và các bước tiến hành để trình cơ quan và tổ chức tài trợ phê duyệt, nó là cơ sở để làm việc với các đồng nghiệp. Xây dựng đề cương nghiên cứu là một bước rất quan trọng, nó giúp cho người nghiên cứu giành được thế chủ động trong quá trình nghiên cứu. Có đề cương mới sắp xếp được kế hoạch chi tiết cho hoạt động nghiên cứu. Đề cương và kế hoạch tuy hai văn bản này có nhiều điểm tương tự nhưng thật ra về tính chất là khác nhau, kế hoạch chỉ vạch ra diễn biến, trình tự các hoạt động, còn đề cương đi vào các nội dung của việc nghiên cứu. Các nội dung nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng, đầy đủ trong một đề cương.

2.2 Nội dung của đề cương nghiên cứu khoa học

Nội dung của đề cương nghiên cứu thường bao gồm các nội dung sau đây:

  1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu và lịch sử vấn đề nghiên cứu

– Lý do chọn đề tài nghiên cứu (hay còn gọi là tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu).

Phần này yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do nào khiến tác giả chọn đề tài để nghiên cứu về mặt lý thuyết, về mặt thực tiễn, về tính cấp thiết, về năng lực nghiên cứu và sở thích cá nhân. Lý do chọn đề tài thường xuất phát từ những yêu cầu của thực tế công tác mà người nghiên cứu đảm nhiệm , hay từ việc phát hiện những thiếu sót, những hạn chế trong nghiên cứu lý thuyết chuyên ngành cần phải bổ sung, mà việc nghiên cứu này sẽ đem lại lợi ích hiện tại cho tương lai của khoa học và thực tiễn.

– Mục đích nghiên cứu

Mỗi đề tài nghiên cứu tuỳ theo phạm vi nghiên cứu của mình phải xác định rõ mục đích nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu là mục tiêu đề tài hướng tới, là định hướng chiến lược của toàn bộ những vấn đề cần giải quyết trong đề tài. Mục đích của các đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng tổ chức quản lý giáo dục nghề nghiệp.

– Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Phân tích sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu, từ trước đến nay đã có ai nghiên cứu, vào năm nào, ở trong nước hay nước ngoài, đã nghiên cứu đến đâu… Hay nói cách khác là làm rõ mức độ nghiên cứu của các công trình đi trước, chỉ ra mặt còn hạn chế và tìm thấy những điều mà đề tài có thể kế thừa bổ sung và phát triển… để chứng minh và đề xuất nghiên cứu đề tài này không lặp lại kết quả nghiên cứu trước đã công bố.

2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

Thế giới khách quan là đối tượng duy nhất của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên thế giới vô cùng rộng lớn, mỗi lĩnh vực khoa học phải chọn cho mình một bộ phận, một phần nào đó để tập trung khám phá tìm tòi, đó chính là thao tác xác định khách thể nghiên cứu.

Trong cái khách thể rộng lớn đó, mỗi đề tài cụ thể lại phải chọn cho mình một mặt, một thuộc tính, một mối quan hệ của khách thể để nghiên cứu. Bộ phận đó chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài.

Mỗi đề tài nghiên cứu một vấn đề, cũng có nghĩa là mỗi đề tài có một đối tượng nghiên cứu. Như vậy, xác định đối tượng nghiên cứu là xác định cái trung tâm cần khám phá của đề tài khoa học. Ví dụ đề tài nghiên cứu là “Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, khách thể nghiên cứu sẽ là: đào tạo nghề ở Việt Nam, đối tượng nghiên cứu sẽ là: các giải pháp nhằm phát triển đào tạo nghề.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu là hai khái niệm có mối quan hệ như loài và giống, chúng có thể chuyển hoá cho nhau. Khách thể của đề tài nhỏ có thể là đối tượng của đề tài lớn hơn và ngược lại đối tượng của đề tài lớn có thể là khách thể của đề tài nhỏ hơn.

Khách thể đồng nghĩa với môi trường của đối tượng mà ta đang xem xét. Xác định đối tượng là xác định cái trung tâm, còn xác định khách thể nghĩa là xác định cái giới hạn chứa đựng cái trung tâm, cái vòng mà đề tài không được phép vượt qua. Do đó xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu là thao tác bản chất của quá trình nghiên cứu khoa học.

3. Giả thuyết khoa học

Để tiến hành khám phá đối tượng, cái mà người ta chưa biết, một thao tác rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học là tiên đoán bản chất đối tượng, từ sự tiên đoán này mà người ta tìm ra các phương pháp, các con đường để khám phá chính bản thân đối tượng. Giả thuyết khoa học là mô hình giả định, một dự đoán về bản chất của đối tượng nghiên cứu. Một công trình khoa học về thực chất là chứng minh một giả thuyết khoa học. Do đó xây dựng giả thuyết là thao tác quan trọng của mỗi công trình khoa học. Giả thuyết có chức năng tiên đoán bản chất sự kiện, đồng thời là chức năng chỉ đường để khám phá đối tượng.

Giả thuyết được xây dựng trên cơ sở phân tích đối tượng và so sánh với những đối tượng khác gần giống nó mà ta đã biết, bằng phép tương tự kết hợp với trí tưởng tượng sáng tạo để nhà khoa học tiên đoán về bản chất đối tượng.

Giả thuyết được xây dựng phải tuân thủ các yêu cầu sau đây:

  1. Giả thuyết phải có tính thông tin về sự kiện, nghĩa là có khả năng giải thích được sự kiện cần nghiên cứu.
  2. Giả thuyết có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm.

Mọi giả thuyết khoa học đều phải chứng minh. Nếu giả thuyết được chứng minh, thì nó trở thành một bộ phận của lý thuyết khoa học, giả thuyết được chứng minh tức là đề tài được thực hiện. Vì vậy, thực chất một công trình khoa học là chứng minh một giả thuyết khoa học.

4. Các nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

– Các nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích và giả thuyết khoa học, mỗi đề tài phải xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Nhiệm vụ nghiên cứu là mục tiêu cụ thể mà đề tài phải thực hiện. Xác định nhiệm vụ nghiên cứu là xác định công việc phải làm, là mô hình dự kiến nội dung đề tài. Các nhiệm vụ được thực hiện là đề tài hoàn thành.

Trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp, nhiệm vụ nghiên cứu thường được xây dựng như sau:

+ Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.

+ Phân tích làm rõ bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu (thông qua phân tích lý thuyết và những số liệu thu thập được trong khảo sát thực trạng).

+ Đề xuất những giải pháp ứng dụng cải tạo hiện thực.

– Phạm vi nghiên cứu:

Giới hạn của đề tài là phạm vi mà đề tài phải thực hiện. Còn phạm vi nghiên cứu là một phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu bao gồm những giới hạn về không gian của đối tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian để tiến hành nghiên cứu và giới hạn quy mô nghiên cứu được sử lý.

5. Các nguồn tài liệu và các phương pháp nghiên cứu

– Các nguồn tài liệu

Tác giả phải trình bày rõ các tài liệu tham khảo đã đọc để xây dựng đề cương. Các tài liệu được liệt kê có chọn lọc phù hợp với phạm vi của đề tài nghiên cứu. Thông thường đối với một đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp cần đọc những loại tài liệu sau đây:

  1. Những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
  2. Những văn kiện có liên quan của Đảng, Chính phủ và của các cấp trong nghành giáo dục.
  3. Những tài liệu lý luận cơ bản về vấn đề trong đó có liên quan đến đề tài của chúng ta (ví dụ những lý luận về giáo dục học, sinh lý học của vấn đề giáo dục mà ta nghiên cứu).
  4. Những công trình nghiên cứu các vấn đề trực tiếp liên quan đến đề tài (những chuyên khảo, những luận văn, đặc biệt là các bài mới nhất trong các loại tạp chí…vv)

Cũng có nhiều trường hợp cần đọc tài liệu về thống kê xác suất để học cách tính toán xử lý các số liệu thu được. Tuỳ theo từng nghành cụ thể của đề tài nghiên cứu mà cần đọc thêm những loại tài liệu khác nhau.

– Các phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học, người nghiên cứu thường phải sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể (phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp toán học…), phải lựa chọn xem phương pháp nào phù hợp với đặc điểm của đề tài và yêu cầu nghiên cứu của mình.

Các phương pháp là con đường thực hiện một công trình nghiên cứu để khám phá đối tượng. Vì vậy, xác định chính xác các phương pháp nghiên cứu giúp quá trình nghiên cứu thu được kết quả tốt nhất và khách quan.

6. Dự kiến dàn ý công trình nghiên cứu

Dàn ý nội dung công trình nghiên cứu thực chất là dự thảo nội dung, là mô hình đề tài mà người nghiên cứu định tiến hành, đòi hỏi người nghiên cứu phải thực hiện nghiêm túc. Hay nói theo cách khác, đây là cái sườn của nội dung nghiên cứu nhằm thu thập và khai thác tài liệu. Dàn ý nội dung gồm các chương, mục phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu. Dựa theo dàn ý, người nghiên cứu thu thập tư liệu (lý luận) và xử lý các cứ liệu thu được (qua điều tra, quan sát, thực nghiệm) để hình thành nội dung của báo cáo.

Dàn ý nội dung dự kiến của công trình nghiên cứu thông thường gồm ba phần chính: mở đầu, nội dung, kết luận và khuyến nghị. Trong đó, phần nội dung là phần cơ bản, chủ yếu nhất có thể được chia thành các chương, mục, tiểu mục (số lượng chương, mục, tiểu mục tuỳ thuộc đặc điểm của đề tài, khối lượng nội dung, cách trình bày của tác giả…)

Thông thường nội dung dàn ý công trình nghiên cứu có ba chương:

Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.

Chương II: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

Chương III: Với tên gọi có thể khác nhau, nhưng chủ yếu trình bày: những kết quả thực nghiệm, khẳng định giả thuyết, những bài học rút ra từ kết quả nghiên cứu, những giải pháp đề xuất để giải quyết các tồn tại của đề tài hoặc hướng dẫn thực tiễn.

Dàn ý có tính chất tạm thời, được sửa đổi và từng bước hoàn chỉnh trong quá trình nghiên cứu. Dàn ý cần được trình bày cụ thể tới mục, các tiểu mục… Dàn ý thực hiện càng chi tiết và hợp lý thì việc thu thập tài liệu và sắp xếp dữ kiện càng dễ dàng.

  1. Kế hoạch nghiên cứu

Kế hoạch nghiên cứu một đề tài khoa học là sự thể hiện những ý đồ, cách thức và những bước thực hiện cụ thể của người nghiên cứu, đó là sự định hướng cho toàn bộ việc nghiên cứu: từ việc thu thập thông tin tư liệu đến viết và bảo vệ công trình. Lập kế hoạch đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu phát triển đúng hướng, tự chủ động làm việc, đạt được mục đích cuối cùng đề ra.

Kế hoạch nghiên cứu là văn bản trình bày kế hoạch dự kiến triển khai đề tài về tất cả phương diện như: nội dung công việc, ấn định thời gian thực hiện từng công việc, sản phẩm phải có và phân công trách nhiệm cho từng thành viên, cộng tác viên.

Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu thường được dự kiến triển khai theo 5 giai đoạn làm việc diễn ra nối tiếp và đan xen nhau

(1) Giai đoạn chuẩn bị

  1. Chọn đề tài, xác định đối tượng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu:

– Theo dõi các công trình và thành tựu khoa học có liên quan đến đề tài.

– Tham khảo các kết quả mới nhất của công trình.

– Đánh giá các kết quả nghiên cứu của các công trình.

– Trao đổi ý kiến với các nhà khoa học.

  1. Lập các bản tóm tắt các công trình nghiên cứu trong phạm vi của đề tài nghiên cứu.
  2. Lập kế hoạch sơ bộ cho công tác nghiên cứu
  3. Tiến hành thử một số công việc (ví dụ: thí nghiệm, điều tra thăm dò…).

(2) Giai đoạn nghiên cứu thực sự

  1. Nghiên cứu thực tại và nêu rõ thực trạng của vấn đề tài nghiên cứu.
  2. Thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã được đặt ra trong kế hoạch:

– Sưu tầm tài liệu liên quan đến đề tài.

– Tổ chức thu thập tư liệu (qua điều tra, hội thảo, đi thực tế…).

– Tiến hành thực nghiệm (nếu có).

  1. Sơ kết và đánh giá sơ bộ các công việc đã thực hiện.
  2. Hoàn thiện công việc và hoàn thành kế hoạch nghiên cứu.

(3) Giai đoạn định ra kết cấu công trình nghiên cứu

  1. Tiến hành tập hợp, xử lý các kết quả nghiên cứu.
  2. Lập dàn bài – cấu trúc của báo cáo kết quả nghiên cứu.

(4) Giai đoạn viết công trình

  1. Viết công trình: viết sơ bộ và viết chính thức bản công trình.
  2. Viết báo cáo tóm tắt của công trình (đối với các loại luận văn, luận án, các đề tài nghiệm thu…)

(5) Giai đoạn bảo vệ (công bố) công trình

– Người nghiên cứu cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện các loại kế hoạch cụ thể như: Kế hoạch tiến độ, kế hoạch nhân lực, lập dự toán kinh phí nghiên cứu.

– Văn bản kế hoạch nghiên cứu thường được soạn thảo thành hai loại:

+ Văn bản để nộp cho cơ quan quản lý đề tài nghiên cứu hoặc cơ quan tài trợ. Loại văn bản này mang ý nghĩa pháp lý nhiều hơn ý nghĩa học thuật, phải làm theo mẫu do các cơ quan này quy định, phải thể hiện đúng kế hoạch tiến độ, nội dung và sử dụng kinh phí phù hợp.

+ Văn bản để thảo luận và sử dụng nội bộ trong nhóm nghiên cứu: về nội dung, văn bản này phải nhất quán với văn bản trên, nhưng quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn mối quan hệ nội bộ giữa các thành viên của nhóm nghiên cứu.

  1. GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU
  2. Thu thập tài liệu thực tế

1.1 Tầm quan trọng

Thu thập các tài liệu lý thuyết và thực tế có tầm quan trọng to lớn, nó giúp cho người nghiên cứu chứng minh cho giả thuyết khoa học đã đưa ra.

1.2 Các nguồn tài liệu thực tế

Người nghiên cứu cần thu thập các thông tin qua nguồn tài liệu thực tế sau:

– Chủ trương và chính sách có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

– Cơ sở lý thuyết có liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu.

– Thành tựu lý thuyết đã đạt được và kết quả nghiên cứu trước đã được công bố có liên quan đến chủ đề nghiên cứu.

– Các số liệu thống kê.

– Kết quả quan sát hoặc thực nghiệm do bản thân người nghiên cứu thu thập.

1.3 Các hình thức thu thập tài liệu

Để thu thập thông tin, người nghiên cứu thường sử dụng các hình thức: thu thập tài liệu từ các nguồn (tạp chí, báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, tài liệu lưu trữ, số liệu thống kê, thông tin đại chúng), phỏng vấn, tiến hành quan sát, tiến hành thực nghiệm…

– Nghiên cứu các nguồn tài liệu:

+ Lập danh mục tư liệu cần theo hệ thống phân loại phù hợp để tương hợp với hệ thống thông tin tư liệu chung.

+ Lập phiếu thư mục: người nghiên cứu phải tự lập các phiếu thư mục để tiện tra cứu, trong đó ghi rõ: nguồn tư liệu, mã số của thư viện.

+ Đọc tài liệu: đọc kỹ, đọc lướt nhanh, tóm tắt, trích ghi, phân tích, đánh giá, phê phán, ghi nhận xét ý kiến cá nhân. Người nghiên cứu cần đọc đầy đủ các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài để làm tổng quan về những thành tựu liên quan đến đề tài.

– Tìm hiểu thực tại:

Phát hiện thực trạng phát triển của đối tượng bằng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Các tài liệu thu thập được từ các phương pháp quan sát, điều tra, thí nghiệm, thực nghiệm qua xử lý bằng toán học thống kê cho ta những tài liệu khách quan về đối tượng.

1.4. Những yêu cầu đối với tài liệu

Tài liệu thu thập phải phù hợp với yêu cầu của đề tài, làm cơ sở lý thyết cho đề tài. Tài liệu phải xác định tính chân thực, phục vụ cho chứng minh vấn đề nghiên cứu.

  1. Xử lý tài liệu thực tế

Trong nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để thu thập dữ kiện liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các dữ kiện thu thập chưa thể sử dụng ngay được mà phải qua quá trình sàng lọc, phân tích, xử lý. Các dữ kiện này gọi chung là tài liệu thu thập.

2.1 Sàng lọc tài liệu

Chỉ nên bắt tay vào sàng lọc tài liệu khi có khối lượng tài liệu nhất định. Sàng lọc tài liệu gồm các công việc như sau:

– Phân loại tài liệu: Công việc này nhằm phân loại các tài liệu thu được

– Chọn lọc tài liệu, tư liệu, số liệu: nghiên cứu mối liên hệ giữa các tài liệu, tư liệu, số liệu. So sánh, đối chiếu, chọn lọc những tài liệu, tư liệu, số liệu quan trọng, thiết thực, có độ tin cậy cao.

– Sắp xếp tài liệu, tư liệu, số liệu: Sau khi quy thành các nhóm tài liệu, số liệu, tiến hành lập dàn ý, sắp xếp cụ thể từng nội dung của từng vấn đề đi theo một lôgic nhất định, chọn các vấn đề cần đi sâu phân tích.

2.2 Xử lý tài liệu

Đây là giai đoạn cơ bản, quyết định chất lượng của đề tài, vì các tư liệu, số liệu được sử lý đúng đắn, chính xác có ý nghĩa trong việc xác nhận (chứng minh) hay bác bỏ giả thuyết đã nêu ra.

Mục đích của việc phân tích và xử lý thông tin, tư liệu là tập hợp, chọn lọc và hệ thống hoá các phần khác nhau của thông tin, của tư liệu đã có để từ đó tìm ra những khía cạnh mới, kết luận mới về đối tượng. Quá trình phân tích, xử lý thông tin, tư liệu là quá trình sử dụng kiến thức tổng hợp của người nghiên cứu, là quá trình sử dụng tư duy biện chứng và lôgic cùng với các phương pháp nghiên cứu khoa học để xem xét đối tượng. Quá trình này do trình độ của người nghiên cứu quy định. Nội dung và phương pháp xử lý thông tin bao gồm: xử lý thông tin định lượng và xử lý các thông tin định tính

  1. Xử lý các thông tin định lượng

Các dữ kiện thu thập được qua các phương pháp thực nghiệm, phương pháp điều tra phỏng vấn, phương pháp quan sát, sau khi đã sàng lọc thường được xử lý ở dạng định lượng theo phương pháp thống kê… các phương pháp phân tích loại trừ, phân tích tương quan và phân tích biến thiên là những phương pháp phân tích định lượng được sử dụng rộng rãi nhất. Xử lý các con số rời rạc, bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị. Xử lý thông tin định lượng để phát hiện động thái và quy luật biến động của tham số.

  1. Xử lý các thông tin định tính

Mục đích của xử lý các thông tin định tính là nhằm xác lập các phẩm chất, thuộc tính khác nhau của những hiện tượng được nghiên cứu. Khi phân tích định tính có thể sử dụng các chỉ số đã biết và xác định xem chúng có hay không cơ sở các nghiệm thể, hoặc là bằng cách phân tích các tài liệu thực tế mà rút ra các chỉ số đó, rồi sau đấy dựa vào chúng mà tiến hành xử lý toàn bộ tài liệu thực tế nói chung. Ví dụ khi nghiên cứu đặc điểm lĩnh hội khái niệm của học sinh học nghề, có thể sử dụng các chỉ số định tính đã được thừa nhận chung như: tính đầy đủ trong việc tách ra các dấu hiệu, tính chính xác của các dấu hiệu đó, mức độ bản chất của các dấu hiệu v.v… Sự phân tích các phẩm chất của học sinh học nghề , như tính tổ chức chẳng hạn, có thể được tiến hành theo các chỉ số sau: Thời gian thực hiện công việc, mức độ hình thành các kỹ năng cần thiết cho sự thực hiện một công việc nào đó, thái độ đối với công việc.

Khi phân tích định tính cần đặc biệt chú ý không chỉ xác định cái đặc trưng cho con người trong hiện tại, mà mà còn cần dự báo cả triển vọng phát triển của nó nữa.

Nhận dạng chuẩn xác mối liên hệ bản chất giữa các sự kiện sẽ giúp người nghiên cứu mô tả được dưới dạng sơ đồ.

Trong quá trình phân tích và xử lý thông tin cần chú ý:

– Tôn trọng tính khách quan của sự kiện, con số, người nghiên cứu không được chủ quan áp đặt theo ý đồ của mình.

– Cần phát huy tinh thần dũng cảm, mạnh dạn trong nghiên cứu khoa học, bởi vì trong quá trình phân tích, xử lý các thông tin có thể dẫn đến kết luận, những nhận xét dễ bị phê phán bác bỏ. Trong trường hợp này, người nghiên cứu cần phải thận trọng kiểm tra lại các kết luận của mình, đồng thời phải mạnh dạn phê phán các tư tưởng lạc hậu, lỗi thời và ủng hộ tích cực tư tưởng mới, các ý tưởng mới mà các công trình nghiên cứu đã chỉ ra.

III. GIAI ĐOẠN KIỂM TRA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm tra kết quả nghiên cứu bằng cách tổ chức lặp lại thực nghiệm giáo dục hay dùng các phương pháp khác với phương pháp đã sử dụng ban đầu. Các phương pháp kiểm tra lẫn nhau giúp ta khẳng định tính chân thực của các kết luận. Thực nghiệm là chứng minh một giả thuyết, chứng minh một luận điểm khoa học cho nên tổ chức thực nghiệm phải tiến hành một cách thận trọng, nghiêm túc và nhiều khi thực nghiệm được tiến hành nhiều lần, ở nhiều địa bàn khác nhau để kết quả nghiên cứu đạt đến mức khách quan nhất.

1- Kiểm tra sơ bộ

2- Kiểm tra chính thức

  1. GIAI ĐOẠN VIẾT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
  2. Hoàn thiện dàn ý công trình nghiên cứu

Viết báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu là trình bày các kết quả nghiên cứu bằng một văn bản hay một luận án, luận văn để công bố kết quả nghiên cứu và báo cáo với cơ quan quản lý đề tài nghiên cứu hoặc cơ quan tài trợ, đây là cơ sở để hội đồng nghiệm thu đánh giá sự cố gắng của các tác giả, đồng thời cũng là bút tích của tác giả để lại cho các đồng nghiệp đi sau.

Viết báo cáo tổng kết đề tài phải tiến hành nhiều lần:

– Viết bản nháp theo đề cương chi tiết trên cơ sở tổng hợp các tài liệu, tư liệu, số liệu thu được và đã được sử lý.

– Sửa chữa bản thảo theo sự góp ý của người hướng dẫn và các chuyên gia.

– Viết sạch bản báo cáo tổng kết đề tài rồi đưa ra thảo luận ở bộ môn.

– Sửa chữa theo sự góp ý của bộ môn.

– Viết sạch để bảo vệ ở hội đồng bảo vệ cấp cơ sở.

– Sửa chữa lần cuối cùng sau khi tiếp thu ý kiến của hội đồng bảo vệ cấp cơ sở. Viết hoàn chỉnh văn bản báo cáo tổng kết đề tài, luận án, luận văn, đồng thời viết tóm tắt các văn bản đó.

  1. Một số điều cần chú ý khi viết công trình nghiên cứu

– Trình bày theo mọi yêu cầu kỹ thuật, nội dung khoa học với độ chính xác cao, vừa có tư tưởng học thuật, đem lại những điều mới mẻ cho khoa học, có tính thực tiễn, có khả năng ứng dụng vào cuộc sống. Đề tài khoa học phải thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, đưa ra được các luận chứng, các kiến giải khoa học, chứng minh được giả thuyết đã nêu ban đầu. Đề tài phải được thực hiện bằng các phương pháp phong phú khác nhau, chính xác đem lại những tài liệu đáng tin cậy.

  1. GIAI ĐOẠN BÁO CÁO TỔNG KẾT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
  2. Việc chuẩn bị bảo vệ công trình nghiên cứu (luận văn, luận án) bao gồm

+ Phải hoàn thiện toàn bộ công trình nghiên cứu thể hiện bằng văn bản đúng với các yêu cầu về nội dung và hình thức trình bày báo cáo tổng kết đề tài, luận văn, luận án của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

+ Viết bản đề cương báo cáo tổng kết đề tài, luận văn, luận án theo tinh thần và dạng của bảng tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài, luận văn, luận án nhưng cô đọng và rút ngắn hơn.

+ Chuẩn bị các tài liệu minh hoạ cho báo cáo.

+ Chuẩn bị các câu trả lời căn cứ theo tinh thần các nhận xét của phản biện và của những người trong và ngoài hội đồng (hội đồng nghiệm thu hay hội đồng chấm luận văn, luận án) .

  1. Báo cáo kết quả nghiên cứu

2.1. Báo cáo kết quả nghiên cứu

Kết thúc, công trình khoa học được đem ra hội đồng khoa học nghiệm thu hoặc đem ra bảo vệ tại hội đồng chấm luận án nhà nước. Đề tài được nghiệm thu, hay bảo vệ thành công, cần được đưa vào ứng dụng trong thực tiễn giáo dục.

Trình bày báo cáo trước hội đồng phải ngắn gọn, đơn giản rõ ràng, dễ hiểu và đầy đủ lượng thông tin cần thiết, quan trọng, chủ yếu về: tính cấp thiết của đề tài, mục đích, nhiệm vụ, đối tượng phạm vi, phương pháp nghiên cứu, những kết quả đạt được, những đóng góp mới, những kết luận, khuyến nghị và tiếp tục nghiên cứu đề tài…

Khi báo cáo kết quả nghiên cứu cần lưu ý:

+ Giành thời gian cho việc làm sáng tỏ các kết quả khoa học mới vừa thu thập được bằng ngôn ngữ có tính thuyết phục để chứng minh (dẫn chứng) với sự hỗ trợ của các tài liệu minh hoạ (do người bảo vệ chọn lựa và sử dụng hợp lý).

+ Các sơ đồ, biểu bảng, tranh ảnh, mẫu vật và các phương tiện cần thiết khác phải được sắp xếp theo thứ tự tương ứng với việc trình bày vấn đề và tiện cho việc sử dụng. Đôi khi để minh hoạ, có thể sử dụng máy tính, máy chiếu hình, máy ghi âm hoặc máy chiếu phim… Song, bố trí sao cho để mọi người tham dự trong phòng hội nghị của hội đồng có thể nhìn rõ.

+ Khi trả lời những câu hỏi và ý kiến nhận xét của các phản biện, các thành viên của hội đồng, người bảo vệ chỉ cần đề cập thẳng vào bản chất của vấn đề, của sự việc, phải thận trọng và tỏ ra lịch thiệp trong quan hệ với những người phát biểu nhận xét về báo cáo của mình, ngay cả khi có những nhận xét mang tính chất phê phán mạnh mẽ. Bản thân phải thể hiện tính khiêm tốn và tự tin trong việc tự đánh giá kết quả khoa học của mình.

2.2. Vấn đề đánh giá một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục

2.2.1. Hiệu quả các quá trình nghiên cứu khoa học.

Sản phẩm khoa học giáo dục là những văn bản trình bày một cách tường minh kết quả nghiên cứu bao gồm những thông tin khoa học mới, những luận chứng, những tư liệu, những kết luận, những đề xuất mới và những tờ trình có thuyết minh, những bảng số, biểu đồ, những phiếu điều tra, những phép thử và có thể cả những sản phẩm bằng vật chất …

Sản phẩm khoa học là kết quả hoạt động sáng tạo của một cá nhân hay một tập thể các nhà khoa học, cần phải được đánh giá một cách khách quan. Đánh giá là xem xét chất lượng của sản phẩm, đồng thời cũng xem xét cả hiệu quả của một quá trình tổ chức và tiến hành nghiên cứu, để đề xuất ứng dụng kết quả nghiên cứu và những giải pháp tổ chức quản lý nghiên cứu tốt hơn.

Đánh giá hiệu quả quá trình nghiên cứu khoa học là tính toán những chi phí cần thiết cho một đơn vị sản phẩm, nhưng quan trọng hơn là đánh giá chất lượng của một công trình. Đánh giá là tìm ra cái có ích nhất, có giá trị đối với cuộc sống, với sự chi phí tối thiểu cả về tài lực và vật lực … Đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học là công cụ của quá trình quản lý nghiên cứu khoa học. Đánh giá là biện pháp đẩy nhanh quá trình nghiên cứu nhằm phục vụ cho cuộc sống nhiều hơn.

Đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học giáo dục là một công việc phức tạp, rất khác với việc đánh giá một công trình khoa học tự nhiên hay khoa học kỹ thuật. Vì vậy, đòi hỏi sự đánh giá toàn diện cả về thông tin khoa học, lẫn ý nghĩa xã hội và chi phí và hiệu quả kinh tế.

  • Hiệu quả khoa học

Nghiên cứu khoa học nhằm mục đích khám phá ra những chân lý mới, những hiểu biết mới về thế giới khách quan. Nghiên cứu khoa học giáo dục cũng nhằm tới hiểu biết đầy đủ hơn, chính xác hơn về những quy luật giáo dục, về bản chất các hiện tượng giáo dục, về các con đường tổ chức hệ thống giáo dục quốc dân, về nội dung, phương pháp giáo dục và các con đường để nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục. Một câu hỏi đặt ra cho mọi công trình khoa học là: cái mới. Cái mới là cái phát hiện mới, chưa từng có ai phát hiện, cái mới phải là cái có giá trị cho khoa học và cho sự nghiệp giáo dục. Cái mới phải là ưu việt tiên tiến hơn cái cũ, có tính thiết thực, cập nhật và phù hợp với thời đại. Như vậy, nghiên cứu khoa học phải tạo ra thông tin mới. Đây là thông số, tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá một công trình khoa học.

Thông tin khoa học mới được xem xét ở hai mặt: Số lượng và chất lượng. Số lượng là tổng thể những thông tin tạo nên hệ thống những hiểu biết, bao gồm những thông tin có giá trị, những khái niệm, những phạm trù, định luật khoa học … số lượng thông tin được tính bằng những con số: Số tài liệu, bài viết đã được đăng tải, công bố, phổ biến, số lượng công trình khoa học đã hoàn thành. Chất lượng thông tin là giá trị đích thực của thông tin. Giá trị của thông tin được xem bằng :

– Tính mới mẻ, đó là thông tin lần đầu tiên được khám phá và công bố, mới mẻ đối với chuyên ngành, đối với quốc gia và đối với nhân loại.

– Là một phát hiện mói về phương pháp giải quyết những vấn đề cụ thể của sự nghiệp giáo dục.

– Tính chính xác khách quan, tính đúng đắn của những luận điểm khoa học mới phát hiện. Đó là thông tin mới đã thử nghiệm, có giá trị cải tạo thực hiện giáo dục, có hiệu quả đối với cuộc sống. Tính chính xác, khách quan của thông tin khoa học phản ánh đúng những quy luật vận động và phát triển của các hiện tượng giáo dục.

– Tính triển vọng của thông tin: Là khả năng khai thông sự bế tắc về nhận thức, gợi lên những ý tưởng mới cho khoa học, tạo khả năng phản ứng dây truyền cho các hiệu quả khác của khoa học. Thông tin có triển vọng tức là thông tin có khả năng đưa khoa học tiến xa hơn, tạo nên những xu hướng nghiên cứu mới, những phương pháp tiếp cận mới, những khả năng ứng dụng mới.

Thông tin khoa học chính là bản thân khoa học, thông tin càng đầy đủ, chính xác, có chất lượng cao, có hệ thống chặt chẽ tức là khoa học đạt tới tầm cao. Thông tin khoa học là bậc thang của sự tiến bộ không ngừng của khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn là sự kế thừa nối tiếp thông tin. Mỗi công trình, mỗi giai đoạn, nghiên cứu đạt tới một trình độ cao tạo đà cho một bước tiếp theo của khoa học.

Đánh giá hiệu quả thông tin khoa học hiện tại chưa có một phương pháp chuẩn xác, đặc biệt là khoa học xã hội trong đó có khoa học giáo dục. Điều quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả khoa học giáo dục là khả năng ứng dụng của nó và thực tiễn để đem lại chất lượng giáo dục và đào tạo thực sự.

  • Hiệu quả xã hội.

Nghiên cứu khoa học giáo dục có mục đích là tìm các giải pháp cho các mâu thuẫn của thực tiễn giáo dục ở nước ta. Như vậy, nghiên cứu khoa học phải hướng vào phục vụ cho sự phát triển của xã hội. Khoa học và cuộc sống là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng gắn bó mật thiết và tác động biện chứng với nhau. Khoa học vì cuộc sống, khoa học phục vụ cho cuộc sống, làm cho cuộc sống tốt hơn. Khoa học cũng bắt nguồn từ cuộc sống, nó khai thác những mâu thuẫn, những khó khăn của cuộc sống, lấy nó làm đề tài nghiên cứu và cũng nhằm tới giải quyết những mâu thuẫn, khó khăn của cuộc sống.

Nghiên cứu khoa học giáo dục tạo ra những thành quả để phục vụ cho xã hội. Kết quả nghiên cứu khoa học làm thay đổi về cách nhìn, cách đánh giá một sự kiện giáo dục, làm thay đổi một quan niệm giáo dục cũ, một thói quen lạc hậu cổ xưa. Kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục tạo nên các phương pháp giáo dục mới trong gia đình, trong nhà trường và trong xã hội.

Thành quả nghiên cứu khoa học giáo dục được xã hội thừa nhận đó là hiệu quả xã hội có ý nghĩa cao nhất. Tính khoa học, tính chính xác của kết quả nghiên cứu tạo nên một sức thuyết phục xã hội, đó là hiệu quả đích thực của khoa học giáo dục.

  • Hiệu quả kinh tế

Bất kỳ một công trình khoa học nào khi đánh giá cũng phải xem xét tới hiệu quả kinh tế. Một câu hỏi đặt ra: Công trình khoa học có giá trị thì đem lại lợi ích gì? Đây là bài toán phức tạp cần được quán triệt và phải giải quyết ngay trong quá trình nghiên cứu đề tài giáo dục.

Khoa học và ứng dụng là hai khâu của quá trình nghiên cứu khoa học. Mục đích nghiên cứu để áp dụng, vì vậy ngay trong quá trình nghiên cứu cơ bản đã diễn ra ý tưởng nghiên cứu ứng dụng các quy luật giáo dục, làm tăng cường chất lượng giáo dục, làm cho quá trình tổ chức giáo dục xã hội đạt tới mục đích đã đề ra. Những thế hệ học sinh được đào tạo sẽ là những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, ngày nay người ta đã nói rằng chi phí cho nghiên cứu và đào tạo là chi phí thông minh nhất vì nó đem lại lợi ích cho xã hội một cách lâu dài.

Đối với một đề tài cụ thể, hiệu quả kinh tế là hiệu quả trực tiếp mà đề tài sẽ đóng góp làm năng suất lao động cao hơn, tạo ra bước nhảy vọt trong sản xuất vật chất hay quản lý xã hội.

2.2.2- Phương pháp đánh giá một công trình khoa học giáo dục

NCKH tạo ra sản phẩm khoa học. Đây là sản phẩm đặc biệt không giống như sản phẩm vật chất, vì vậy, đánh giá nó thật khách quan là điều khó khăn. Để đánh giá khách quan một công trình khoa học đòi hỏi phân tích đầy đủ các thông số, các dữ kiện khác nhau của quá trình nghiên cứu và kết quả của công trình khoa học.

– Đánh giá quá trình nghiên cứu qua các mặt:

+ Phân tích các chi phí cho quá trình nghiên cứu: mua sắm thiết bị vật tư.

+ Phân tích việc sử dụng thời gian, nhân lực cho quá trình nghiên cứu.

– Đánh giá quá trình nghiên cứu theo các mặt:

+ Hiệu quả khoa học, hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế mà công trình đem lại.

+ Khả năng triển khai ứng dụng của công trình khoa học, sự tiếp nhận của xã hội.

Đánh giá theo cách này gọi là đánh giá theo đầu ra. Tuy nhiên để đánh giá thật khách quan người ta kết hợp cả hai hình thức đó một cách chặt chẽ. Hiện nay, ở nước ta cũng như trên thế giới việc đánh giá kết quả nghiên cứu một công trình, một chương trình khoa học nào đó, thường được thực hiện bằng hai phương pháp như sau:

2.2.2.1- Phương pháp đánh giá bằng hội đồng nghiệm thu

Phương pháp đánh giá một công trình khoa học bằng hội đồng nghiệm thu (phương pháp hội đồng) là phương pháp rất phổ biến hiện nay. Dùng phương pháp này để nghiệm thu một đề tài khoa học, đánh giá một luận văn thạc sỹ, một luận án tiến sỹ… Phương pháp này có ưu điểm là tiến hành nhanh gọn, dứt điểm. Nó được tiến hành như sau:

  1. Thành lập hội đồng nghiệm thu hoặc hội đồng đánh giá

Hội đồng nghiệm thu, đánh giá được cấp có thẩm quyền thành lập gồm từ 7 đến 11 người tuỳ theo cấp đề tài, tuỳ theo chuyên ngành và điều kiện cụ thể.

Thành viên hội đồng được chọn từ những chuyên gia theo chuyên ngành, đây là những người có học vị từ phó giáo sư trở lên am hiểu chuyên môn, có năng lực và có phẩm chất, trung thực và khách quan.

Hội đồng gồm có: Chủ tịch hội đồng là người có học hàm, học vị cao nhất trong các thành viên, thư ký hội đồng, phản biện và các uỷ viên hội đồng.

  1. Hoạt động của hội đồng

Sau khi có quyết định thành lập hội đồng, các thành viên của hội đồng được tiếp xúc với công tình khoa học. Hội đồng nhóm họp để nghe chủ nhiệm đề tài, tác giả luận văn, luận án trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu, nghe các phản biện nhận xét sau đó là chất vấn tác giả, tranh luận công khai về đề tài được thực hiện. Hội đồng bỏ phiếu kín đánh giá, sau đó công bố kết quả kiểm phiếu. Kết qủa bỏ phiếu chính là sự phán quyết cuả tập thể hội đồng đối với kết quả của công trình đã được tiến hành.

  1. Nguyên tắc đánh giá bằng hội đồng

– Các thành viên của hội đồng được chọn phải là những chuyên gia có năng lực chuyên môn cao, có phẩm chất tốt, trung thực, khách quan.

– Hội đồng làm việc công khai và không công khai trong bỏ phiếu đó là biện pháp để đảm bảo tính khách quan khi đánh giá.

– Hội đồng cần có các thành viên ở những trường phái khoa học khác nhau, các cơ sở khoa học khác nhau để nới lên tiếng nói khách quan.

– Hội đồng nghiệm thu đề tài có thể được thành lập nhất thời, hội đồng chấm luận án tiến tới thành lập cố định theo chuyên ngành với một nhiệm kỳ hợp lý.

– Ý kiến thống nhất cuả đa số thành viên trong hội đồng là ý kiến cuối cùng của toàn thể hội đồng.

  1. Kết quả nghiệm thu

– Nếu 2/3 thành viên hội đồng tán thành coi như công trình được nghiệm thu. Các bản nhận xét đánh giá về bản thân công trình và tóm tắt công trình được gửi lên cấp trên theo cấp quản lý, còn luận án do Bộ Giáo dục và Đào tạo theo qui chế của hội đồng phong chức danh khoa học Nhà nước.

– Hội đồng có thể đề nghị cấp trên khen thưởng, kiến nghị xuất bản, phổ biến hay chuyển cấp nghiên cứu ở mức cao hơn.

2.2.2.2 – Phương pháp thử nghiệm kết quả nghiên cứu trong thực tiễn

Phương pháp thứ hai đánh giá công trình nghiên cứu khoa học bằng cách đưa kết quả nghiên cứu vào thử nghiệm trong thực tiễn. Đây là phương pháp ít được sử dụng, nhưng là phương pháp tốt nhất để khẳng định kết quả nghiên cứu một cách khách quan. Nó làm gắn liền hai khâu: Nghiên cứu và ứng dụng, kích thích cả nghiên cứu và ứng dụng nhằm đạt tới yêu cầu thực sự của nghiên cứu khoa học.

Đưa kết quả vào thử nghiệm trong thực tế là phương pháp công bằng, khá quan nhất nhưng là phương pháp phức tạp đòi hỏi phải có một số điều kiện: Trước hết, đây không phải là đề tài lý thuyết thuần tuý mà là đề tài có thể ứng dụng được hoặc là đề tài thuộc lĩnh vực ứng dụng có khả năng xây dựng được chương trình khảo nghiệm. Thứ hai, là cần có thời gian, tốn thêm tài chính, nhân lực và vật lực, nghĩa là cần có đầu tư cho một giai đoạn tiếp sau nghiên cứu. Thứ ba, cần có địa điểm thích hợp với những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định.

Trong nghiên cứu khoa học giáo dục việc đánh giá kết quả nghiên cứu bằng thử nghiệm cũng có thể được thực hiện nếu các đề tài này là những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp hay nội dung giáo dục dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Để tiến hành thử nghiệm người ta cho chọn một địa điểm thích hợp và tiến hành các bước tiếp theo mô hình của thực nghiệm sư phạm. Nếu ở một địa điểm được thử nghịêm có kết quả tốt, có thể mở rộng địa bàn sang cơ sở mới, ở địa phương có những điều kiện khác hơn. Kết quả thử nghiệm mở rộng này là những chứng cứ hùng hồn về kết quả một đề tài đã được nghiên cứu.

Qui trình nghiên cứu khoa học

I- GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ

Để tiến hành nghiên cứu khoa học phải chuẩn bị đầy đủ các mặt cho nghiên cứu. Bước chuẩn bị có một vị trí đặc biệt, nó góp phần quyết định chất lượng của công trình nghiên cứu. Chuẩn bị nghiên cứu bắt đầu từ xác định đề tài và kết thúc ở việc chuẩn bị lập kế hoạch tiến hành nghiên cứu.

Qui trình nghiên cứu khoa học

Một qui trình nghiên cứu khoa học (chỉ mang tính chất minh hoạ cho một qui trình đơn giản nhất)

  1. Xác định đề tài nghiên cứu

1.1. Tầm quan trọng của việc xác định đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khoa học là một hoặc nhiều vấn đề khoa học có chứa nhiều điều chưa biết (hoặc biết chưa đầy đủ) nhưng đã xuất hiện tiền đề và khả năng có thể biết được nhằm giải đáp các vấn đề đặt ra trong khoa học hoặc trong thực tiễn.

Xác định đề tài là tìm vấn đề làm đối tượng nghiên cứu. Vấn đề của khoa học và thực tiễn là vô cùng phong phú, xác định cho mình một vấn đề nghiên cứu không phải là việc làm đơn giản. Xác định đề tài là một khâu then chốt, có ý nghĩa quan trọng đối với người nghiên cứu, vì phát hiện được vấn đề để nghiên cứu nhiều khi còn khó hơn cả giải quyết vấn đề đó và lựa chọn đề tài đôi khi quyết định cả phương hướng chuyên môn trong sự nghiệp của người nghiên cứu. Vì vậy, khi xác định đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu cần chú ý tới các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu.

1.2. Các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu

– Đề tài nghiên cứu phải có ý nghĩa khoa học: bổ sung nội dung lý thuyết của khoa học; làm rõ một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại; xây dựng cơ sở lý thuyết mới hoặc xây dựng nguyên lý các giải pháp khác nhau trong kỹ thuật, công nghệ, tổ chức, quản lý…

– Đề tài phải có tính thực tiễn, thể hiện: xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội; nhu cầu kỹ thuật của sản xuất; nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường…

– Đề tài phải có tính cấp thiết đối với thời điểm tiến hành nghiên cứu. Vấn đề đang là điểm nóng bỏng về giáo dục nghề nghiệp cần phải giải quyết và giải quyết được nó sẽ đem lại giá trị thiết thực cho lý luận và thực tiễn, đóng góp cho sự phát triển của khoa học và đời sống.

1.3 Các điều kiện lựa chọn đề tài nghiên cứu

Thực tiễn giáo dục nghề nghiệp rất phong phú, đa dạng, có thể tìm được rất nhiều đề tài để nghiên cứu. Thực ra số đề tài mà thực tiễn giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi nghiên cứu thì rất nhiều mà số vấn đề có thể chọn làm đề tài nghiên cứu có kết quả thì không nhiều. Có những vấn đề thoạt tiên tưởng nghiên cứu sâu, nhưng khi bắt tay vào mới thấy là khó có khả năng phát triển về lý thuyết hoặc có tác dụng về thực tiễn. Nhiều vấn đề thấy rõ là cần nghiên cứu, nhưng khi đề cập thì chỉ có thể phát biểu tham luận ngắn mà không thành công nghiên cứu sâu được. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi một số điều kiện chủ quan ở người nghiên cứu cũng như điều kiện khách quan ở công tác nghiên cứu.

  • Điều kiện chủ quan

Đề tài phải phù hợp với xu hướng, khả năng, kinh nghiệm của người nghiên cứu. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng phải đứng trước lựa chọn giữa nguyện vọng khoa học của cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội.

  • Điều kiện khách quan của việc nghiên cứu

Phải có đủ điều kiện khách quan đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài như: cơ sở thông tin, tư liệu, phương tiện, thiết bị thí nghiệm ( nếu cần phải tiến hành thí nghiệm), kinh phí cần thiết, quỹ thời gian và thiên hướng khoa học của người hướng dẫn hoặc của người lãnh đạo khoa học, các cộng tác viên có kinh nghiệm…

Các yếu tố trên được coi là những điều kiện cơ bản trong xuất phát điểm của công cuộc nghiên cứu, thiếu một trong những điều kiện trên thì việc nghiên cứu sẽ không đem lại kết quả mong muốn.

Các đề tài có thể được xây dựng từ việc phát hiện của các nhà sư phạm, hay các nhà nghiên cứu cơ sở, cũng có thể do cấp trên đưa tới, cũng có thể do đấu thầu mà dàn

22 tháng 8 2017

cop đâu mà dài vậy,ai mà đọc dc nổi cơ chứ phải lọc ý ra chứ

30 tháng 8 2017

Đột biến gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất sẽ tạo ra kiểu hình khác nhất so với kiểu dại.

ĐB A : làm trượt khung sao chép từ điểm đột biến → nghiêm trọng

ĐB B : Đột biến xảy ra ở promoter sẽ làm cho gen không được phiên mã, kiểu hình phụ thuộc vào alen còn lại trên cặp NST tương đồng

ĐB C : Đột biến xảy ra ở intron nên là vô hại

ĐB D : Mất đi 1 số axit amin trong chuỗi polypeptide nhưng có thể không thay đổi cấu hình không gian của protein

Vậy đột biến tạo hậu quả nghiêm trọng nhất A

Chọn A

20 tháng 11 2017

Đáp án C

Các chromait đã tách ra → kỳ sau, hoặc kỳ cuối  → loại B,D

Số lượng tế bào đã tăng gấp đôi → đã trải qua 1 lần phân bào nên không thể là kỳ sau I

20 tháng 4 2017

Chọn D. Một học sinh đang đọc sách giáo khoa.

Vì một học sinh bình thường thì không cần kính lúp để đọc sách giáo khoa, còn trường hợp A người thợ chữa đồng hồ cần kính lúp để quan sát những chi tiết nhỏ trong đồng hồ, nhà nông học cần kính lúp để quan sát những sâu bọ nhỏ mắt thường khó quan sát được còn nhà địa chất cần kính lúp để nghiên cứu mẫu quặng.