chứng minh truyện ngắn sống chết mặc bay đã phản ánh cuộc sống lầm than cơ cực của nhân dân ta
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
Truyện ngắn "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn được xem là "bông hoa đầu mùa" vì đây là truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ. Dù vẫn còn mang những dấu ấn của văn học trung đại cả về nội dung lẫn hình thức những vấn đề được phản ánh lại có giá trị đến tận hôm nay. Nổi bật ở tác phẩm này chính là sự đối lập nhau của hai giai cấp khi đứng trước vấn đề cấp bách sống còn của nhân dân.
Mở đầu câu chuyện là tình thế vô cùng nguy nan của khúc đê sông Nhị: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Đối với nhân dân ta, đê điều là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sinh sống và canh tác. Nếu không may vỡ đê, nhà cửa, hoa màu, cây cối và cả con người sẽ chìm trong nước, cuộc sống sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Khúc đê sông ở làng X kia đang đứng trước nguy cơ bị vỡ, đúng là tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Bị đe dọa trực tiếp đến cuộc sống, nhân dân ở đây ra sức hộ đê. Khung cảnh ấy được tác giả miêu tả lại bằng ngòi bút hiện thực hết sức sống động và xót thương: "...kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vá tre, nào đắp, nào cứ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. “Tình cảnh trông thật thảm". Khung cảnh vội vã, khẩn trương hiện ra ngay trước mắt người đọc. Ai cũng nhận thức được tình hình nguy nan ngay lúc này, mỗi người đều dốc hết những gì sức lực mình có để cứu vớt lấy khúc đê này. Hình ảnh nhìn rất đỗi thương tâm. Không dừng lại ở đó, tình thế của nhân dân được tác giả đẩy lên đến cao trào: "Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời, thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất." Qua đoạn văn này, ta đã hiểu được rằng người dân ở đây đã túc trực bao nhiêu lâu qua chứ không phải mỗi hôm nay. Tuy rằng mọi người bảo ban nhau nhanh tay nhưng sức người có hạn, ai cũng đã thấm mệt rồi. Đọc đến đây, cảm giác thương xót đến uất nghẹn. Tình thế này liệu còn được bao nhiêu phần hi vọng nữa. Mọi người đều cảm nhận được tình thế nguy nan, đau thương tang tóc đang cận kề với mỗi người ở làng X này. Tác giả miêu tả cảnh dân tình đang loay hoay chống chọi với thiên tai một cách cụ thể, tỉ mỉ là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình: "...thế thời nào quan cha mẹ đâu? Thưa rằng: Đang trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì". Trong khung cảnh hỗn loạn của quan dân, tác giả đã kể chuyện viên quan phụ mẫu mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng điệu đậm chất mỉa mai, châm biếm và phẫn uất. Vị quan phụ mẫu cũng đích thân chỉ đạo việc hộ đê đấy chứ, nhưng không phải là ra cùng với nhân dân mà hắn ta ở trong đình, không gian ấm áp với những món ăn sang trọng, xa hoa: "đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng". Quan phụ mẫu thì "uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà ngồi dưới đất mà gãi". Quan phụ mẫu là vậy, nhưng xung quanh hắn ta lại có đủ "thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng" cùng ngồi hầu bài. Cả một hệ thống quan lại ăn bổng lộc của dân nhưng lại mảy may, dửng dưng trước sự sống còn của họ. Khung cảnh ở đây dường như không có chút liên quan nào so với tình hình hộ đê của nhân dân. Trong khi ngoài kia "mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê" thì trong đình, dù chỉ là một cuộc tổ tôm thôi nhưng tên quan kia vẫn duy trì trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm như chốn công đường. Sự đam mê cờ bạc của đám quan lại diễn ra ngay trên mặt đê, ngay trên mạng sống của hàng nghìn con dân đã cho thấy sự độc ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm khi mà khoảnh khắc đê vỡ- nỗi đau đớn, mất mát của nhân dân lại cũng là lúc ván bài của quan ù to- quan vỗ đùi sung sướng. Còn gì uất hận hơn khi những nỗi đau ấy còn thua cả niềm vui của một ván bài. Khung cảnh vỡ đê được tác giả miêu tả thật chi tiết và chua xót biết bao nhiêu: "Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết". Dẫu biết rằng cuộc sống nghèo khổ của nhân dân là do thiên tai gây nên những nỗi đau ấy sẽ vơi đi bao nhiêu nếu những kẻ làm quan cha mẹ không thờ ơ với mạng sống của con dân mình như thế. Câu chuyện khép lại với một kết thúc buồn. Tác giả đã sử dụng tài tình bút pháp miêu tả kết hợp với biểu cảm, cùng với đó là nghệ thuật đối lập tăng cấp đã làm cho câu chuyện đẩy lên được mức cao trào, giúp người đọc nhận ra được tình cảnh khốn cùng của nhân dân và bộ mặt xấu xa, vô lương tâm của đám quan lại. Câu văn biền ngẫu làm cho nhịp truyện cân đối, mang đậm không khí của thời đại. Với truyện ngắn này, Phạm Duy Tốn đã mở ra một thời kì mới cho văn học nước nhà, đó là sự ra đời của văn học viết bằng chữ Quốc ngữ. Tác phẩm đã đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của văn học nước nhà thời kì sau này.CHÚC EM HỌC TỐT NHÉCó người từng cho rằng " Truyện ngắn sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân, đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến." Liệu điều đó có đúng không ?
Như mọi người biết , ngay từ mở đầu truyện tác giả đã tạo ra một tình huống bất ngờ khiến người đọc tò mò . Đó là tình huống đê sắp vỡ , rất nguy hiểm và khiến người đọc cũng sẽ khiến người đọc hồi hộp . Người dân bên ngoài thì nhốn nháo , mỗi người đều chung tay , luống cuống đắp đê . Tạo nên một tình thế nguy hiểm , nhốn nháo , lo lắng . Qua hình ảnh so sánh " nhân dân " lướt thướt như " chuột lột " khiến ta đau xót về sự mệt nhọc , đói lả của nhân dân . Như vậy , đúng là truyện đã phản ánh chân thực lên cuộc sống khổ cực của nhân dân . Trong khi ngoài kia đang nhốn nháo làm việc thì xin hỏi quan phụ mẫu nơi nào ? Xin thưa là quan đang thong dong , vui sướng và nhàn nã đánh bài trong đình . Nghe qua là biết đây là tên quan vô học và sa vào tệ nạn xã hội là bài bạc . Họ đang ung dung thưởng thức những món cao sang mà quên đi nhiệm vụ dìu dắt , chăm sóc nhân dân . Đây đúng là tên quan " lòng lang dạ thú " và vô trách nhiệm , ăn chơi sa đọa . Đau thương và đáng ghét nhất là hình ảnh đê vỡ . Lúc đó , nước lũ đã nhấn chìm mọi làng mạc , nhấn chìm cả con người . Tình cảnh thật bi thương , đau lòng biết bao ! Cũng chính lúc đó tên quan phụ mẫu đã bộc lộ rõ tính xấu xa của mình . Hắn bỏ ngoài tai tin đê vỡ , hắn còn đỗ trách nhiệm lên đầu người dân đáng thương và tiếđ tục ván bài to của mình . Chao ôi ! Hình ảnh đó thật đáng khinh biết bao . Đây đúng là một xã hội phong kiến thối nát , vô trách nhiệm.
Như vậy quan điểm " Truyện ngắn sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân, đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến." là vô cùng đúng đắn.
Nguồn: https://hoidap247.com/cau-hoi/1028879
hai hình ảnh tương phản cơ bản trong sống chết mặc bay Phạm Duy Tốn là một bên cạnh người dân khốn khổ vật lộn căng thẳng với nguy cơ vỡ đập, một bên là quan phụ mẫu, cháng phủ đang ung dung vào cuộc tổ tôm ngày trong khi dân đang đắp đê. khi hàng trăm dân làm việc từ sáng tới chiều vật lộn chống chọi với mưa gió, người nào cũng ướt như chuột lột người mệt lử. sức người ngày càng yếu sức nước ngày càng to, nguy cơ vỡ đê đến dần. đỉnh điểm của sự việc: dân phụ báo tin đê vỡ, quan vẫn thờ ơ ung dung quát lạt. đê vỡ mà chúng vẫn trong niềm vui cực Độ: Ù! Thông tôm chi chi nảy của các quan viên phụ mẫu. sự kết hợp của việc học tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê cờ bạc vô trách nhiệm của vien quan mải mê ăn chơi ích kỷ nhẫn tâm đứng nhìn đến mất nhân tính.từ đó tôi càng xót thương cho số phận khổ cực của người dân trong thời đại phong kiến.
Tham khaỏ nha em:
I. Mở bài
-Giới thiệu khái quát về tác giả Phạm Duy Tốn (những nét chính về cuộc đời, đặc điểm truyện ngắn của ông…)
-Giới thiệu về “Sống chết mặc bay” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1.Tình hình vỡ đê và sức chống đỡ
-Tình hình vỡ đê:
+Thời gian: gần một giờ đêm
+Địa điểm: Khúc đê làng X, thuộc phủ X
+Thời tiết: trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao
+Thế đê: hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác
⇒Nghệ thuật tăng cấp, qua đó diễn tả sức hung bạo của mực nước và điều đó đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân
-Sức chống đỡ của người dân:
+Thời gian: từ chiều cho đên gần 1 giờ sáng
+Dân phu hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắo, nào cừ…
+Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi
⇒Nghệ thuật: ngôn ngữ miêu tả, liệt kê, sử dụng động từ mạnh..
+Không khí: khẩn trương, gấp gáp (trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi..)
⇒Cảnh tượng nhốn nháo, căng thẳng, con người dường như bất lực hoàn toàn. Qua đó thể hiện tâm trạng lo lắng của tác giả
2.Cảnh quan phụ mẫu đánh tổ tôm khi đi hộ đê
-Địa điểm: đình trên mặt đê, vững chãi, an toàn
-Khung cảnh trong đình:
+Đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút
+Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng
+Quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm: quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm
-Khi đê vỡ:
+Không hề lo lắng: “cau mặt, gắt: mặc kệ!”
+Vẫn không ngừng việc chơi bài
⇒Tên quan là kẻ vô trạch nhiệm, thờ ơ trước nỗi khổ của nhân dân
-Nghệ thuật: tương phản giữa cảnh tượng trong đình và ngoài đê, qua đó làm nổi bật sự hưởng lạc, vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân
-Thái độ của tác giả: mỉa mai, châm biếm, phê phán bọn quan lại vô trách nhiệm và cảm thương với nối khổ của nhân dân (thể hiện qua các từ: than ôi, ôi…)
3.Cảnh vỡ đê và nhân dân lâm vào cảnh lầm than
-Nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết
-Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn
⇒Tình cảnh thảm sầu, đau thương
III.Kết bài
-Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
+Nội dung: lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên
+Nghệ thuật: tăng cấp kết hợp với tương phản, lời văn cụ thể, sinh động..
-Cảm nhận của em về truyện ngắn: giàu giá trị hiện thực và nhân đạo, thể hiện tài năng của tác giả…
1. Cảnh nhân dân chống bão lụt
a. Nội dung
- Thời gian: “gần một giờ đêm”.
-> Khuya khoắt, con người phải được nghỉ ngơi.
=> Việc hộ đê của nhân dân đã kéo dài cả ngày đến đêm khuya mà vẫn chưa được nghỉ ngơi.
- Thiên nhiên:
+ Trời (trên cao)
. Trời mưa tầm tã.
. Trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống.
+ Sông (dưới thấp)
. Nước sông Nhị Hà lên to quá,
. Dưới sông thời nước vẫn cuồn cuộn bốc lên.
- Con người:
+ Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.
+ Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi.
+ Chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài.
b. Nghệ thuật
- Tính từ, động từ dồn dập:
+ Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.
+ Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi.
+ Trời mưa tầm tã.
+ Trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống.
- Hình ảnh so sánh: “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.”
- Câu văn cảm thán:
+ “xem chừng núng thế lắm”, “không khéo thì vỡ mất”.
+ Tình cảnh trông thật là thảm…
+ Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay!
=> Kết hợp bút pháp tả thực với biểu cảm, trữ tình để phản ánh cuộc sống.
=> Tình cảnh thê thảm của nhân dân
2. Cảnh quan phủ cùng tay chân cờ bạc, hưởng thụ, để dân... sống chết mặc bay
a. Nội dung
- Địa điểm: trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao.
- Không gian: đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng.
- Quan phụ mẫu: uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi.
- Lính lệ, quan dưới quyền:
+ Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lọng, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm.
+ Bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bài.
- Đồ dùng:
+ Mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía.
+ Hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông.
+ Chung quanh sập bắc bốn ghế mây.
=> Đi chơi, đắm mình trên chiếu bạc
- Cảnh chơi bạc:
+ Trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng
+ Quan ngồi trên, nha ngồi dưới, người nhà, lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh
+ Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền “Ừ”.
+ Kẻ này “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng.
- Bình luận:
+ Quan phụ mẫu cùng với nha lại đương vui cuộc tổ tôm ở trong đình ấy. Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ.
+ Ôi! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực gì mà run rủi cho quan mê được như thế?... Đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài cao thấp. Đứng trên đê mà đốc kẻ cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng ngồi trong đình, đã sẵn kẻ bốc nọc người chia bài, nhiều đường thú vị.
+ Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà bên tả bên hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…
+ Một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập!
=> Say sưa, đắm mình trên chiếu bạc.
b. Nghệ thuật
- Miêu tả tăng cấp:
Dân, người dưới quyền | Quan phụ mẫu |
- Bẩm, dễ có khi đê vỡ! | - Gắt: Mặc kệ! |
- Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi | - Đỏ mặt tía tai quát: Đê vỡ rồi!... thời ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày! |
- Thầy đề tay run cầm cập thò vào đĩa nọc. | - Ù bài, vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: Ù! Thông tôm, chi chi nảy!... Điếu, mày! |
-> Hình ảnh đối lập gay gắt.
=> Kẻ quan liêu, vô trách nhiệm reo vui, sung sướng tột bậc khi được hưởng một món tiền lớn giữa lúc nhân dân đau khổ đến mức thẳm sâu, không thể đo đếm được.
“Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết.”
Đề 1:
“ Sống chết mặc bay” được coi là một trong những sáng tác mở đầu khuynh hướng văn học hiện thực ở nước ta về đề tài trong cuộc sống thực của xã hội, đó là cảnh hàng năm người nông dân ở đồng bằng Bắc bộ phải đương đầu với sự tàn phá dữ dội của thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống chính mình. Cảnh dân phu hộ đê, chống với cơn lũ được tác tác giả miêu tả cụ thể. Bọn quan lai thường được mệnh danhlà phụ mẫu của dân, bản chất thối nát, mất cả lương tri của bọn chúng, được ngòi bút hiện thực phơi bày, tố cáo. Thông qua hình tượng nhân vật quan huyện, tác giả đã cho người đọc hình dung được bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời. Tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét từ diện mạo, dáng điệu, ngôn ngữ phù hợp với tâm lí, tính cách của một tên quan hống hách, táng tận lương tâm. Kết cấu của truyện xây dựng trên sự phát triển của hai cảnh đối lập để làm nổi bật chủ đề. Bút pháp miêu tả không phải là bút pháp tượng trưng, ước lệ mà là cách miêu tả cụ thể,chi tiết, sống động.
Đề 2:
Tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn là một bức tranh hiện thực rất sinh động ; hiện thực và nó cũng tương phản giữa hai cảnh đời trái nghịch nhau - cuộc sống và sinh mạng của người dân với cuộc sống vô nhân đạo của bọn quan lại, mang đậm giá trị hiện thực, nhân đạo cao cả về tình người.Thật vậy ,hình ảnh đối lập và sự đan xen giữa thực tế gian khổ của người dân đang chống chọi với thiên nhiên nghiệt ngã và cảnh sống hưởng thụ và vô trách nhiệm của bọn quan lại chính là giá trị nghệ thuật góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của nhà văn .Như vậy ;bằng nghệ thuật tương phản, tác giả vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của bọn quan lại, chúng coi thường tính mạng nhân dân. Chúng chỉ lo ăn chơi cờ bạc bóc lột dân đen đến tận xương tuỷ.Bài văn ''Sống chết mặc bay'' đã lên án gay gắt thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, tên quan phủ là đại diện; Sự vô trách nhiệm của tên quan phủ qua việc làm "hộ đê": tư thế, cách ngồi, lời nói, thái độ vô trách nhiệm khi biết tin đê vỡ ...Qua đó ; câu truyện phản ánh nỗi khổ cực của người dân và thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống cơ cực, lầm than của người dân do thiên tai, do thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến đưa đến.