Read the following passage and mark the letter A, B, C or D on your answer sheet to indicate the correct answer to each of the questions from 46 to 50.
Transportation accounts for up to one–third of greenhouse gas emissions from the world’s biggest cities and traffic is the largest source of toxic air pollution. To create sustainable, healthy and livable cities, we need to increase the number of cyclists on our streets, and that means getting more women on their bikes. In San Francisco, only 29% of cyclists are women; in Barcelona, there are three male cyclists for every female cyclist; in London, 37% of cyclists are female.
Surveys reveal that potential cyclists of all genders are deterred by similar concerns, including aggressive and speeding drivers, the threat posed by large vehicles such as lorries and buses, and bike theft. However, women disproportionately view protected cycle lanes as a more urgent priority. According to research about women and cycling in San Francisco, cities should invest in protected cycle lanes with consistent and clear signage that function as a joined–up network to encourage female riders. Together with more secure cycle parking, these infrastructure investments would make cycling safer, supporting those who already cycle and encouraging those who do not yet ride.
People do what they perceive to be possible. Research in San Francisco found that women, especially women of color, felt that “people like me” do not cycle. Similarly, 49% of people in London say they do not feel cycling is for “people like them”. More diverse and inclusive imagery of cyclists (in policy documents, in the media and on city streets) could help challenge these perceptions and make more people feel that cycling is for everyone. Social events that enable women to try cycling in a relaxed environment, perhaps as part of a buddy or mentor system that pairs experienced cyclists with those newer to cycling, can help make cycling more accessible and inclusive, along with approaches such as female–led maintenance classes.
The different decisions men and women make about cycling are not only based on issues of convenience or comfort. People’s perceptions of safety influence how, when, where and why they travel. Women and girls learn early on to worry about their personal safety when out and about, and to change their behavior, dress, speech and travel patterns to avoid sexual harassment or violence. Cities must take women’s and girls’ safety considerations seriously through initiatives such as safety audits.
Which of the following can be inferred from the passage?
A. Traffic in big cities is partly blamed for air pollution.
B. The time when people travel does not depend on the degree of safety they perceive.
C. There hasn’t been a great deal of publicity for all kinds of cyclists.
D. In order to make cycling more popular, female cyclists should be encouraged to travel alone.
Kiến thức: Đọc hiểu
Giải thích:
Điều nào sau đây có thể được suy ra từ bài đọc?
A. Giao thông ở các thành phố lớn bị đổ lỗi một phần cho ô nhiễm không khí.
B. Thời gian khi mọi người đi du lịch không phụ thuộc vào mức độ an toàn mà họ cảm nhận được.
C. Đã không có nhiều sự công khai cho tất cả các loại người đi xe đạp.
D. Để việc đạp xe trở nên phổ biến hơn, người đi xe đạp nữ nên được khuyến khích đi du lịch một mình.
Chọn C
Dịch bài đọc:
Giao thông vận tải chiếm tới một phần ba lượng khí thải nhà kính từ các thành phố lớn nhất thế giới và giao thông là nguồn ô nhiễm không khí độc hại lớn nhất. Để tạo ra các thành phố bền vững, lành mạnh và đáng sống, chúng ta cần tăng số lượng người đi xe đạp trên đường phố của chúng ta, và điều đó có nghĩa là có thêm phụ nữ trên xe đạp của họ. Ở San Francisco, chỉ có 29% người đi xe đạp là phụ nữ; ở Barcelona, có ba người đi xe đạp nam cho mỗi người đi xe đạp nữ; ở London, 37% người đi xe đạp là nữ.
Các cuộc khảo sát cho thấy những người đi xe đạp tiềm năng của tất cả các giới đều bị ngăn cản bởi những mối quan tâm tương tự, bao gồm cả những người lái xe hung hăng và chạy quá tốc độ, mối đe dọa từ các phương tiện lớn như xe tải và xe buýt và trộm cắp xe đạp. Tuy nhiên, phụ nữ không cân xứng xem các làn đường được bảo vệ là ưu tiên cấp bách hơn. Theo nghiên cứu về phụ nữ và đi xe đạp ở San Francisco, các thành phố nên đầu tư vào các làn đường được bảo vệ với các biển báo phù hợp và rõ ràng có chức năng như một mạng lưới liên kết để khuyến khích các tay đua nữ. Cùng với việc đỗ xe theo chu kỳ an toàn hơn, các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng này sẽ giúp việc đạp xe an toàn hơn, hỗ trợ những người đã đạp xe và khuyến khích những người chưa đi xe.
Mọi người làm những gì họ cảm nhận được là có thể. Nghiên cứu tại San Francisco đã phát hiện ra rằng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ da màu, cảm thấy rằng những người người Hồi giáo như tôi không đi xe đạp. Tương tự như vậy, 49% người dân ở London nói rằng họ không cảm thấy việc đi xe đạp là dành cho những người như họ. Hình ảnh đa dạng và toàn diện hơn về người đi xe đạp (trong các tài liệu chính sách, trên phương tiện truyền thông và trên đường phố thành phố) có thể giúp thách thức những nhận thức này và khiến nhiều người cảm thấy rằng đạp xe là dành cho tất cả mọi người. Các sự kiện xã hội cho phép phụ nữ thử đạp xe trong một môi trường thoải mái, có thể là một phần của hệ thống bạn bè hoặc người cố vấn kết hợp người đi xe đạp có kinh nghiệm với người mới đi xe đạp, có thể giúp đi xe đạp dễ tiếp cận và toàn diện hơn, cùng với các phương pháp như bảo trì do phụ nữ các lớp học.
Những quyết định khác nhau mà đàn ông và phụ nữ đưa ra về việc đi xe đạp không chỉ dựa trên các vấn đề về sự thuận tiện hay thoải mái. Mọi người nhận thức về sự an toàn ảnh hưởng như thế nào, khi nào, ở đâu và tại sao họ đi du lịch. Phụ nữ và trẻ em gái học sớm để lo lắng về sự an toàn cá nhân của họ khi ra ngoài và thay đổi hành vi, cách ăn mặc, lời nói và cách đi lại để tránh quấy rối tình dục hoặc bạo lực. Các thành phố phải coi trọng phụ nữ và các cô gái nghiêm túc về vấn đề an toàn thông qua các sáng kiến như kiểm toán an toàn.