hay viet mot bai van nghi luan neu ro tac hai cua mot trong cac te nan xa hoi ma chung ta can phai kien quyet va nhanh chong bai tru
Lap dan y giup mk nhe moi nguoi
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
1. Mở bài:
Xã hội càng ngày càng phát triển đời sống càng nâng cao song lại có nhiều tác nhân gây hại tới sức khỏe con người trong đó có hút thuốc lá.
2. Thân bài
Gọi tên: Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe con người, trên mỗi bao thuốc lá đều có dòng chữ ” hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy ta vẫn hút thuốc lá.
- Biểu hiện:
- Nguyên nhân:
- Tác hại:
- Biện pháp
3. Kết bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận (có thể giới thiệu trực tiếp hoặc gián tiếp)
+ Giới thiệu trực tiếp: Trực tiếp khẳng định về tác hại của ma túy đối với con người.
+ Giới thiệu gián tiếp: Đi từ thực tế cuộc sống hiện nay, sự gia tăng của nhiều tệ nạn xã hội, sử dụng ma túy là một trong những tệ nạn ấy.
- Thái độ của bản thân về vấn đề đó: Phản đối, lên án, phê phán.
II. Thân bàia. Ma túy là gì?
- Ma túy là tên gọi chung của những chất kích thích khi dùng một lần có thể gây nghiện cho con người.
- Chất ma túy có sẵn trong tự nhiên ở một số thực vật như cây anh túc, nha phiến,...một số tỉnh miền núi phía Bắc, cây cần sa ở một số tỉnh biên giới phía Nam, cây coca ở Nam Mỹ,..Ma túy cũng có được tổng hợp thành từ những chất heroin, morphin, amphetamine,...
- Ma túy tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như ma túy đá, viên giấy, nước, tép,.. và được sử dụng bằng nhiều hình thức hút, chích, hít,...
- Ma túy có khả năng gây nghiện lớn khiến người dính vào không thể cưỡng lại được, bị phụ thuộc vào, chịu sự chi phối bởi nó.
b. Thực trạng của việc sử dụng ma túy
- Ở Việt Nam hiện nay, hiện tượng sử dụng ma túy khá phổ biến với số lượng lên tới hành trăm nghìn người.
- Đối tượng sử dụng ma túy trải dài trên khắp cả nước có cả người lớn tuổi, người trung niên và đặc biệt rất nhiều thanh niên trẻ tuổi – thế hệ tương lai của đất nước cũng sa vào tệ nạn ma túy.
- Phạm vi: Ma túy đã len lỏi vào từng ngõ ngách cuộc sống của con người, từ người lao động, người công nhân cho đến cả người trí thức. Đáng sợ hơn cả, ma túy còn xuất hiện trong cả môi trường học đường khi không ít các bạn học sinh, sinh viên bị lôi kéo dụ dỗ sử dụng ma túy.
c. Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan:
+ Sự phát triển của xã hội kéo theo những hệ quả đang tiếc, khi con người đầy đủ về vật chất họ sẽ tìm đến những thú vui tinh thần để chăm sóc khoái cảm. Mặt khác, xã hội phát triển, những áp lực về việc làm, nhà ở cũng gia tăng, vì không có việc làm ổn định nên hộ cũng dễ đi đến con đường tệ nạn xã hội mà cụ thể là ma túy.
+ Thiếu sự quan tâm, dạy dỗ của gia đình, nhà trường, xã hội
+ Sự dụ dỗ của những đối tượng xấu.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Sự buông thả đua đòi, ham chơi, thích hưởng thụ của của bản thân
+ Sự tò mò, thiếu hiểu biết của một số bộ phận giới trẻ
+ Không có lập trường vững vàng, dễ bị sa ngã, dụ dỗ
d. Hậu quả của việc sử dụng ma túy
- Trước hết, ma túy có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người, gây ra những căn bệnh nguy hiểm như ung thư, phá hủy nội tạng, các cơ quan trên cơ thể.
- Ảnh hưởng tới tinh thần, luôn đẩy con người vào trạng thái u mê, thiếu tỉnh táo, mất tập trung. Hình ảnh của những thanh niên vật vờ trong hẻm vắng, bãi tha ma thật sự là nỗi sm ảnh kinh hoàng.
- Ảnh hưởng đến kinh tế khi con người hoàn toàn bị phụ thuộc vào ma túy. Khi ấy họ trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội
- Làm suy thoái về đạo đức, lối sống của con người, là nguyên nhân dẫn đến trộm cắp, cướp của, giết người, gây rối nơi công cộng. Những vụ thảm sát, vụ cướp của giết người diễn ra gần đây cũng đều ít nhiều có căn nguyên từ ma túy.
- Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự bùng nổ của đại dịch HIV của thế giới.
- Người bị nghiện ma túy sẽ bị bạn bè, đồng nghiệp xa lánh, tự đánh mất đi tương lai của chính bản thân mình.
e. Biện pháp
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục rộng rãi đối với toàn dân trong việc nhìn nhận về những tác hại ghê gớm của ma túy để có thái độ dán cách với nó.
- Quan tâm đầu tư tới các cơ sở cai nghiện, những đối tượng bị nghiện ma túy để những người lầm đường có thể trở về với cuộc sống.
- Nhà nước có biện pháp trừng trị nghiêm khắc đối với những kẻ buôn bán, vận chuyển và sử dụng ma túy
- Tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo để tranh sa vào những tệ nạn xã hội.
- Đặc biệt, cần quan tâm đối với thể hệ trẻ tương lai, có sự chung tay phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục con em.
- Lên án, dẹp bỏ những hành vi tiếp tay cho tệ nạn ma túy.
- Mỗi cá nhân cũng cần tự ý thức được hành vi của mình, thường xuyên trau dồi tri thức và đạo đức.
f. Liên hệ bản thân
- Là học sinh, khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tích cực trau dồi học hỏi, có sự hiểu biết về tác hại của ma túy cũng như tệ nạn xã hội để phòng ngừa và tránh xa chúng.
- Tuyên truyền tới bạn bè, người thân tác hại ghê gớm của ma túy.
III. Kết bài- Khái quát lại vấn đề
- Đưa ra lời khuyên và lời kêu gọi
Tham khảo:
“Khi con tu hú” là bài thơ Tố Hữu làm khi ông bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế) năm 1939. Trong khoảng thời gian bị bắt giam từ tháng 4/1939 cho đến tháng 3/1942, Tố Hữu đã làm rất nhiều thơ in trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy. Đây là một bài thơ nói lên cảm giác mất tự do, ngột ngạt của nhà cách mạng trẻ tuổi. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu (sáu dòng) nói về niềm khao khát tự do. Phần hai (bốn dòng) thể hiện khát vọng hành động, tháo cũi sổ lồng.
Ý thơ bắt đầu từ tiếng chim tu hú, như nhan đề bài thơ đã nêu lên: Khi con tu hú. Đó là tu hú kêu, tiếng kêu vang suốt cả bài thơ, ra ngoài bài thơ, vang mãi. Tu hú kêu báo hiệu mùa hè. Người bị giam trong tù, khép kín giữa bốn bức tường kín mít. Chỉ còn có âm thanh là mối liên hệ với bên ngoài: chỉ có tiếng chim, tiếng chuông, tiếng bước chân, tiếng rao đêm... là báo hiệu cuộc sống bên ngoài. Tự nhiên, âm thanh bên ngoài trở thành biểu tượng của cuộc sống tự do. Cả bài thơ xây dựng trên hình ảnh âm thanh đó.
Âm thanh không chỉ là tiếng kêu. Trong âm thanh thường có cả một thế giới hoài niệm gắn liền với âm thanh ấy. Chẳng hạn khi nghe một giai điệu bài hát, người ta dễ dàng liên tưởng tới cái thời gian và không gian mà người ta say mê với bài hát ấy. Cũng vậy, khi tiếng chim tu hú gọi bầy cất lên làm hiện ra trong tâm trí tác giả một thế giới đồng nội thân thuộc:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Khung cảnh và chi tiết đúng là của đồng nội vào vụ tháng năm, tháng sáu: lúa chín, trái chín, tiếng ve, ngô vàng, nắng tươi, trời cao, sáo diều bay lượn. Nhà thơ chứng tỏ một tâm hồn thơ đầy ắp ấn tượng về thôn dã. Nhưng hồn thơ còn chứa đựng một điều kì diệu. Ấy là sự liên tưởng tạo thành một phản ứng dây chuyền. Tiếng chim gọi bầy, gọi lúa đang chín và trái cây đang ngọt dần, biết bao là hương vị. Rồi thì bóng râm và dậy tiếng ve ngân — một vầng âm thanh xao xuyến ngập tràn thính giác. Bắp vàng và nắng đào đầy sân gợi lên ánh sáng chan hòa và màu sắc rực rỡ. Cuối cùng âm thanh gợi ra một không gian cao rộng tự do:
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Đây là đỉnh điểm của sự tưởng tượng. Tâm hồn nhà thơ như cũng đang bay lượn, nhào lộn trong không gian cao rộng ấy. Khó có thể hình dung đây là cảnh tượng có thật được nhìn bằng mắt, bởi tác giả đang ở trong tù. Đây chỉ có thể là tấm ảnh mở ra trong một tiếng chim:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Nhà thơ thì thầm với mùa hè, đây cũng là một hình ảnh mới. Mùa hè của tự do, của nồng nàn, của đam mê. Tiếng kêu của chim tu hú đến đây trở thành tiếng gọi của tự do.
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Hai câu kết đã thể hiện niềm khát khao tự do đến cháy bỏng, đến đỉnh điểm. Sự tương phản của cảnh trời tự do và nhà tù giam hãm đã thôi thúc thêm niềm uất hận, muốn phá tan nhà tù. Con chim cứ kêu nghĩa là tiếng gọi tự do không bao giờ thôi, nghĩa là ý chí vượt ngục luôn luôn thường trực. Bài thơ kết thúc với một sự nung nấu ý chí hành động, một tâm trạng nhức nhối, bồn chồn, một tâm sự không thể ngồi yên, khoanh tay. Điều thú vị là Tố Hữu đã kết thúc chuỗi ngày tù ngục của mình bằng hành động vượt ngục. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh tung bay.
Từ bài thơ Từ ấy đến bài thơ Khi con tu hú, ta thấy Tố Hữu làm thơ rất thành thực, thơ đốt lên tự đáy lòng, không chút màu mè, kiểu cách, tỉa tót. Thơ ông truyền cảm bằng thứ tình cảm chân thật của chính mình.
cô giáo bạn bóp óc hs ra cũng ko đk 3 trang , 2 trang đã khó rồi
Ở phần đọc hiểu, có thể xuất hiện nhiều phong cách ngôn ngữ, nhiều phương thức biểu đạt khác nhau. Nhưng trong kỳ thi THPT Quốc gia 2017, do có sự tích hợp các vấn đề nghị luận xã hội vì thế văn bản đọc hiểu thường tập trung ở hai dạng văn bản: văn bản nghị luận (chính luận); văn bản thông tin (báo chí, khoa học).
Trong đó văn bản nghị luận là loại văn bản trong đó người viết trình bày những ý kiến của mình bằng cách dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (nghe) hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất.
Văn bản thông tin thường đề cập, bàn luận, thuyết minh, tường thuật, miêu tả, đánh giá… về những vấn để, những hiện tượng gần gũi, bức xúc với cuộc sống con người và cộng đồng.
Câu hỏi phần đọc hiểu chia thành 4 phần: nhận biết (câu trả lời nằm trong văn bản; chú ý lại nhan đề, nguồn trích dẫn, câu chủ đề, các từ khóa); suy nghĩ và tìm kiếm (câu trả lời nằm trong văn bản nhưng phải suy nghĩ và tìm kiếm để có câu trả lời); sáng tạo (cần kết hợp tri thức nền tảng về vấn đề với thông tin tác giả đã cung cấp để đi đến suy luận về câu trả lời); tự bộc lộ (câu trả lời nằm ở trong đầu bạn; vận dụng kiến thức đọc hiểu vào thực tiễn). Vì đề bài kiểm tra kỹ năng đọc hiểu nên học sinh cần trả lời ngắn gọn, hệ thống, trình bày trực tiếp vào vấn đề, tránh lối viết lan man có thể mất điểm.
Thầy Trịnh Quỳnh - giáo viên Văn trường THPT Lương Thế Vinh (Nam Định).
Phần nghị luận xã hội: Ôn chủ đề dễ gặp, đề mở và dạng đề nâng cao
Đối với phần nghị luận xã hội, học sinh cần luyện viết đoạn theo chủ đề. Một số chủ đề quan trọng là các phẩm chất mà người học sinh trong xã hội hiện đại cần hướng tới như trung thực, bao dung, trách nhiệm, tôn trọng, yêu thương, hạnh phúc, khiêm tốn… và một số kỹ năng cần có ở mỗi học sinh như kỹ năng đọc, hợp tác, trải nghiệm sáng tạo…
Về hình thức đoạn văn nghị luận xã hội nên triển khai theo trình tự lập luận tổng – phân – tổng. Học sinh chú ý câu chủ đề; các thao tác lập luận như giải thích, phân tích, bình luận. Phần rút ra bài học phải chân thành, thiết thực, có thể đơn giản và gần gũi tránh lối viết khuôn mẫu, sáo rỗng. Học sinh có thể gạch ý ra giấy nháp để phân tách ý rồi mới viết thực sự, có thể tìm ý bằng cách trả lời câu hỏi (Là gì? Vì sao? Làm thế nào?).
Đối với dạng đề mở, học sinh được khuyến khích tự do suy nghĩ và trình bày theo cách riêng. Thầy Trịnh Quỳnh khuyên học sinh tự tin thể hiện cách nghĩ riêng của bản thân.
“Học văn vì hứng thú vì đam mê. Quan trọng văn chương là con người tôi. Mỗi lần làm bài là mỗi lần được nói lên suy nghĩ của mình. Nếu bạn lúc nào cũng nghĩ quan điểm của mình sẽ bị người khác đánh giá thấp, không dám khác biệt thì bạn khó có cơ hội thành công trong cuộc sống. Hơn hết suy nghĩ của bạn phải thiết thực, chân thành. Thuyết phục người khác mới là cách bạn cần phải làm chứ không phải chạy theo một khuôn mẫu sáo rỗng nào đó. Có như thế thi cử mới thực sự là một trải nghiệm”, thầy giáo này lưu ý.
Học sinh lớp 12 ở Nghệ An ôn thi THPT quốc gia. (Ảnh: Hoàng Lam)
Thầy Quỳnh nhận định, phần nghị luận văn học sẽ có sự phân hóa cao, học sinh muốn đạt điểm trên 8 cần tập trung thời gian ôn tập và làm bài phần này.
Giai đoạn nước rút học sinh cần ôn luyện các dạng đề nâng cao như bình luận 2 ý kiến; phân tích một đoạn văn hoặc so sánh hai đoạn thơ. Trước khi làm bài cần chú ý các thao tác lập luận phải sử dụng xem đề bài có yêu cầu giải thích hay bình luận so sánh hay không?
Để làm tốt phần này học sinh cần xem lại 3 vấn đề: Lý luận văn học (khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, tính dân tộc, tính nhân dân, khuynh hướng đời tư thế sự…); Phong cách tác giả ( ví như sự thống nhất và thay đổi trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, sự nhạy cảm với sự chảy trôi biến đổi và niềm tin trong tình yêu của Xuân Quỳnh…); Đặc trưng thể loại (như mâu thuẫn xung đột kịch trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt…).
Lời khuyên của thầy Trịnh Quỳnh dành cho các sĩ tử có trước kỳ thi đó là ôn luyện kỹ các phần/dạng đề trọng tâm, luôn có niềm tin vào chính mình, có kỷ luật và kiên trì ôn tập, phát huy khả năng tư duy hơn là sự ghi nhớ đơn thuần.
đây là tham khảo thôi e nhé
I. Mở bài:
Nêu khái quát vấn đề để dẫn vào bài (VD: Đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa để tiến tới một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta phải vượt qua các trở ngại, khó khăn. Một trong những trở ngại đó là các tệ nạn xã hội. Và đáng sợ nhất chính là ma tuý, mối nguy hiểm không của riêng ai).
II. Thân bài
1. Giải thích thuật ngữ
- Tệ nạn xã hội: Tệ nạn xã hội là những hành vi sai trái, không đúng với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Tệ nạn xã hội là mối nguy hiểm, phá vỡ hệ thống xã hội văn minh, tiến bộ, lành mạnh. Các tệ xã hội thường gặp là: Tệ nạn ma tuý, mại dâm, đua xe trái phép…và trong đó ma túy là hiện tượng đáng lo ngại nhất, không chỉ cho nước ta mà còn cho cả thế giới.
- Ma tuý: Là một chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp. Khi ngấm vào cơ thể con ngưòi, nó sẽ làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ và tâm trạng của người đó, khiến người sử dụng có cảm giác lâng lâng, không tự chủ được mọi hành vi hoạt động của mình, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
- Ma tuý tồn tại ở rất nhiều dạng như hồng phiến, bạch phiến, thuốc, lắc … dưới nhiều hình thức tinh vi khác nhau như uống, chích, kẹo…
2. Làm rõ tác hại của ma tuý
a. Đối với cá nhân người nghiện (có thể trình bày theo ba vấn đề: Sức khoẻ, tinh thần, thể chất)
- Gây suy giảm hệ miễm dịch, giảm khả năng đề kháng làm cho người bệnh dễ mắc các bệnh khác;
- Ma tuý chính là con đường dễ dàng đi đến những căn bệnh nguy hiểm dễ lây lan đặc biệt là HIV/AIDS;
- Người nghiện ma tuý sức khoẻ yếu dần, không có khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.
- Nghiện ma tuý khiến cho con người u mê, tăm tối; từ người khoẻ mạnh trở nên bệnh tật, từ đứa con ngoan trong gia đình trở nên hư hỏng, từ công dân tốt của xã hội trở thành đối tượng cho luật pháp. Khi đói thuốc, con nghiện sẽ làm bất cứ điều gì kể cả tội ác: Cướp giật, trộm cắp, giết người…
b. Đối với gia đình
- Làm cho kinh tế gia đình suy sụp
- Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình …
c. Đối với xã hội
- Là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật, mại dâm ... làm cho an ninh xã hội bất ổn.
- Làm hao tiền tốn của của quốc gia (do phải phòng chống, lập trại cai nghiện, ...)
- Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang làm mất vẻ mỹ quan, văn minh lịch sự, vật vờ trên những con đường của xã hội.
- Làm suy giảm giống nòi …
3. Từ việc nêu và phân tích tác hại cần khẳng định: Phải nói "không" với ma tuý
4. Biện pháp (Sau khi khẳng định nói "không" cần dẫn để nêu lên biện pháp phòng chống ma tuý):
- Có kiến thức về tác hại, cách phòng trách ma tuý, từ đó tuyên truyền cho mọi người về tác hại của nó.
- Hãy tránh xa với ma tuý bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh để chống lại mọi thử thách, cám dỗ của xã hội.
- Nhà nước cần phải có những hình thức xử phạt nghiêm khắc, triệt để đối với những hành vi tàng trữ, buôn bán vận chuyển trái phép ma tuý.
- Đồng thời cũng phải đưa những người nghiện vào trường cai nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ, tránh những cảnh "nhàn cư vi bất thiện", giúp họ nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống cộng đồng, không xa lánh, kì thị họ.
- Tham gia các hoạt động truyền thống tệ nạn xã hội …
III. Kết bài:
Rút ra kết luận: Ma túy kinh khủng là thế nên mỗi chúng ta phải biết tự bảo vệ mình, tránh xa những tệ nạn xã hội, tránh xa ma túy.
Giải thích tệ nạn xã hội , nêu một số tệ nạn xã hội
Nêu thjc trạng của một số tác hại ( bản thân , gia đình, xã hội)
Nguyên nhân dẫn tới tệ nạn xã hội
Kết bài