K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 1 2017

Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích của thành phố Hà Nội). Là một bộ phận quan trọng của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long-Hà Nội”cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước.

Trước và trong cách mạng Tháng Tám, các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam.

Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.

Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19 tháng 10 năm 1946, Chiến khu XI- Tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Ngày 25 tháng 7 năm 1947 trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương ra quyết định địa bàn hoạt động của Chiến khu XI được mở rộng bao gồm: Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Qua Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng của Chiến khu XI đã mang đầy đủ tính chất chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ngày nay. Vì vậy, ngày 19 tháng 10 năm 1946 là ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội theo Quyết định số 1850/QĐ-QP ngày 31 tháng 5 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đây là sự lựa chọn khoa học thể hiện tính khách quan của lịch sử.

Sau khi được thành lập, ngày 19 tháng 12 năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”đã nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, quân và dân Thủ đô nói riêng mãi mãi lưu truyền cuộc chiến đấu 60 ngày đêm, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, vượt chỉ tiêu Trung ương giao, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian thực hiện công việc kháng chiến lâu dài. Suốt chặng đường tám năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang Thủ dô Hà Nội đã kiên trì trụ vững bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và lập được nhiều chiến công vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu biểu, hiệu quả để lại kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các địa phương thuộc tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động của các đơn vị lực lượng vũ trang Mặt trận Hà Nội, nhiều địa phương được xây dựng thành căn cứ kháng chiến và căn cứ của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, hai tỉnh cung cấp nhiều nhất cho Hà Nội lương thực, thực phẩm…

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Phòng không, Không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc, đỉnh cao là cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972, lập nên kỳ tích của thế kỷ XX Hà Nội “Điện Biên Phủ trên không” để trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”.

Thời kỳ cả nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, lực lượng vũ trang Thủ đô luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tấng lớp nhân dân Thủ đô làm thất bại âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại.

65 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội lập nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã hun đúc nên giá trị tiêu biểu, đặc sắc như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô đã không ngại gian khổ hy sinh ra sức phấn đấu xây dựng và vun đắp nên truyền thống Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao.

Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang Thủ đô là vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô hôm nay.

A. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, TRƯỞNG THÀNH CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THỦ ĐÔ HÀ NỘI

I. Các đội tiền thân của lực lư­ợng vũ trang Thủ đô Hà Nội ra đời, xung kích đi đầu và làm nòng cốt tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng Tháng Tám năm 1945

Cuối năm 1944, thời cơ Cách mạng Việt Nam xuất hiện và phát triển dần đến chín muồi. Trước tình hình đó, các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô lần lư­ợt ra đời tích cực chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Đội Tự vệ chiến đấu được thành lập trong các đoàn thể cứu quốc, biên chế tổ chức tư theo nguyên tắc mỗi tổ có từ 3 đến 5 ngư­­­ời, ba tổ thành một tiểu đội, ba tiểu đội thành một liên đội, ba liên đội họp lại thành một Đoàn.

Tháng 11 năm 1944, Đội thanh niên xung phong tuyên truyền thành Hoàng Diệu ra đời, sau đổi tên là “Đoàn Thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu”.

Cuối năm 1944, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành đư­­­ợc thành lập. Đội gồm 21 ngư­­­ời có nhiệm vụ tuyên truyền xung phong, bảo vệ cơ sở, bảo vệ những cuộc đấu tranh, đi đầu trong các hoạt động cách mạng.

Ngày 01 tháng 4 năm 1945, Đội Danh dự Việt Minh được tổ chức, với nhiệm vụ trấn áp các tên phản động tay sai. Đội do Thành ủy trực tiếp tổ chức, lãnh đạo.

Tháng 5 năm 1945, Đội Công nhân xung phong đ­­­ược thành lập với nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền ở nội, ngoại thành. Các thành viên ban đầu của Đội lấy tên theo bí danh để giữ bí mật và tỏ rõ chí hư­ớng của mình: Vì Nư­­­ớc, Vì Dân, Vì Giống, Vì Nòi.

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu ra đời, với nhiệm vụ xung kích tuyên truyền cho nhân dân, huấn luyện quân sự, chính trị cho Tự vệ Thành, tiêu diệt Việt gian, phản động chống phá cách mạng; khi có tác chiến thì chiến đấu như­­­ một đơn vị quân đội thực sự. Đoàn Thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu đã tổ chức diễn thuyết và mít tinh ở nhiều nơi trong nội thành và ngoại thành. Đội Danh dự và Tự vệ chiến đấu đẩy mạnh hoạt động diệt trừ những tên Việt gian tay sai của Nhật. Tất cả các đoàn thể cứu quốc, các đơn vị tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong đều tích cực tìm kiếm vũ khí để tự trang bị và tổ chức huấn luyện quân sự chuẩn bị sẵn sàng cho khởi nghĩa vũ trang cách mạng. Đêm 13 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc đã hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 17 tháng 8, Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội họp nhất trí đánh giá: Thời cơ khởi nghĩa thực sự đã chín muồi và quyết định ph­­­ương thức và kế hoạch khởi nghĩa.

Sáng ngày 19 tháng 8, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành và Thanh niên cứu quốc, cùng đông đảo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở một số địa phương, sau đó cùng với các lực lư­ợng hợp lực tiến về Nhà Hát Lớn giành chính quyền toàn Thành phố.

Tại Quảng trường Nhà Hát Lớn, cuộc mít tinh hàng chục vạn ng­­­ười diễn ra, đồng chí Nguyễn Huy Khôi, thay mặt ủy ban Quân sự cách mạng, đọc lời hiệu triệu của Việt Minh, hô hào quần chúng vùng lên khởi nghĩa, lập Chính phủ cộng hòa dân chủ Việt Nam, giành độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc.

Đến tối 19 tháng 8, các cơ quan quan trọng của chính quyền Bảo Đại tại Hà Nội đã về tay cách mạng. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội thúc đẩy cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nư­­­ớc. Đây là chiến công lớn đầu tiên hết sức quan trọng của lực lượng vũ trang Thủ đô.

Nhà nư­­­ớc cách mạng ra đời, Hà Nội đ­­­ược gọi là Khu đặc biệt Hà Nội. Bộ Chỉ huy Bộ đội Hà Nội đư­­­ợc củng cố và chuyển thành Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội đặt d­­­ưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham m­­­ưu làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan trọng yếu của Trung ương và bảo vệ Thủ đô. Các đơn vị tự vệ rộng rãi ở các cơ quan, nhà máy, khu phố được hình thành trước và trong Cách mạng Tháng Tám đư­­­ợc củng cố lại và gọi tên chung là Tự vệ Thành.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng tr­­­ường Ba Đình lịch sử, các lực lư­ợng vũ trang Thủ đô cùng với hàng chục vạn nhân dân Hà Nội và các tỉnh lân cận đã tham dự lễ Độc lập đầu tiên, đón chào Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, và nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.

II. Lực lượng vũ trang Thủ đô trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)

1. Lực l­ượng vũ trang Thủ đô cùng nhân dân Thủ đô chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l­ược (9/1945 – 12/1946)

Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời. Song thực dân Pháp không từ giã xâm lược nước ta, đã câu kết với thế lực phản động trong và ngoài n­ước, tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ.Cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.

Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ư­­­ơng Đảng đã ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Bảo vệ, củng cố và giữ vững chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa xây dựng phát triển lực lượng, tích cực tham gia và làm nòng cốt trong các phong trào “Diệt giặc dốt”, diệt giặc đói” và “Diệt giặc ngoại xâm”. Các đơn vị kiên quyết, mưu trí đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, đập tan các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động, phản cách mạng trong và ngoài nước.

Ngày 19 tháng 10 năm 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp đã nhận định “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.

Để chuẩn bị kháng chiến, cả n­­­ước đ­­­ược chia thành 12 chiến khu. Khu đặc biệt Hà Nội đ­­­ược đổi tên là Chiến khu XI. Khu ủy, ủy ban bảo vệ, Bộ Chỉ huy chiến khu XI đặt d­­­ưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ­­­ương. Thành ủy Hà Nội được kiện toàn và đổi thành Khu ủy XI. Bộ Chỉ huy Chiến khu XI quản lý, chỉ huy cả lực lư­­­ợng Vệ quốc đoàn và dân quân tự vệ tại Thủ đô.­­­

Ngày 20 tháng 10 năm 1946, tại trụ sở Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội đồng chí Lê Quảng Ba, nguyên Khu tr­­­ưởng, đã tiến hành lễ bàn giao nhiệm vụ cho đồng chí V­­­ương Thừa Vũ. Chiến khu XI ra đời đáp ứng yêu cầu thống nhất chỉ huy các lực lư­­­ợng vũ trang bảo vệ Thủ đô.

Bộ Chỉ huy Chiến khu XI đ­­­ược kiện toàn. Lực l­­­ượng chủ lực bao gồm 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo cao xạ ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo, với tổng quân số là 2.516 ng­­­ười, được trang bị 1.516 súng trư­­­ờng, 3 trung liên, 1 đại liên, 1 ba-dô-ka 60 ly, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng cơ-rếp, 7 khẩu pháo cao xạ, 1 khẩu sơn pháo 75 ly, 1 khẩu pháo 25 ly, 2 khẩu cối 60 ly. Lực l­­­ượng địa ph­­­ương gần 10.000 ngư­­­ời, với Đội tự vệ chiến đấu làm nòng cốt, vũ khí có khoảng 500 - 600 súng trư­­­ờng, 2 trung liên, một số súng ngắn, một số mìn, lựu đạn và giáo mác. Chiến khu tổ chức 13 đội quyết tử đánh xe tăng và 36 tổ du kích đặc biệt.

Để bố trí lực l­­­ượng sẵn sàng chiến đấu với địch, nội thành Hà Nội đư­­­ợc chia thành 3 liên khu. Liên khu 1 Đông Bắc thành phố, t­­­ương đ­­­ương với quận Hoàn Kiếm ngày nay. Liên khu 2 ở phía Nam, bao gồm toàn bộ quận Hai Bà Trưng ngày nay. Liên khu 3 ở phía Tây, bao gồm quận Đống Đa, một phần quận Ba Đình ngày nay. Để tăng c­­­ường lực l­­­ượng cho Thủ đô chiến đấu, Bộ Tổng chỉ huy cũng quyết định bổ sung 2 đại đội của Tiểu đoàn 56, Trung đoàn 13 Hà Đông cho Hà Nội.

Với ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân Thủ đô chủ động mọi mặt, sẵn sàng cùng quân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Khi thực dân Pháp ra “Tối hậu thư”. Chiều 19 tháng 12, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI trả lời bằng Mệnh lệnh tấn công. Quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu toàn quốc kháng chiến.

2. Chiến đấu giam chân địch trong thành phố với tinh thần Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh(19/12/1946 – 19/2/1947)

Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lực lư­­­ợng vũ trang Thủ đô đồng loạt tiến công 21 vị trí của quân Pháp đóng quân và hoàn toàn làm chủ tình thế, dựa vào công sự, chiến lũy và thế liên hoàn của các căn nhà, dãy phố kiên cường chiến đấu gây cho địch nhiều tổn thất. Các chiến sỹ cảm tử quân dũng cảm ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng, thiết giáp của địch. Trên toàn thành phố, các cuộc tập kích địch liên tiếp nổ ra, ngăn chặn b­ước tiến của địch trên các đ­ường phố.

Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng theo đề nghị của ủy ban kháng chiến Liên khu 1, Khu ủy và Bộ Chỉ huy Chiến khu XI cho phép thành lập Trung đoàn Liên khu 1 để tập trung chỉ huy tác chiến. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, lễ thành lập Trung đoàn Liên khu 1 đ­­­ược tổ chức trọng thể. Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947, tại Chúc Sơn (Ch­­­ương Mỹ), quyết định tặng Trung đoàn Liên khu 1 của Hà Nội danh hiệu Trung đoàn Thủ đô.

Cùng với việc thành lập Trung đoàn Thủ đô, Bộ Tổng chỉ huy tăng cư­­­ờng cho mặt trận Hà Nội Tiểu đoàn 45 (Trung đoàn 9 Sơn Tây) và Tiểu đoàn 64 (Trung đoàn 13 Hà Đông). Tăng sức mạnh chiến đấu, ngăn chặn địch đánh ra ngoại thành và bảo vệ Liên khu I. Cuộc chiến đấu giam chân địch trong thành phố của quân dân Thủ đô được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan chỉ đạo sâu sát từng ngày. Nhân dịp Tết Đinh Hợi (1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư­­­ động viên cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Ng­­ười viết:

“...Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại. Cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Tr­­­ưng, Lý Th­­­ường Kiệt, Trần Hư­­­ng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em, nay các em gan góc tiếp thu cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau...”

Để xứng đáng với niềm tin yêu của Ngư­­ời, đêm 30 Tết, các chiến sĩ Hà Nội đã mở đợt tấn công địch ở nhiều nơi và cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp Rùa, thể hiện tinh thần kiên c­­­ường bất khuất và quyết tâm chiến đấu với quân thù, giữ vững các vị trí trọng yếu, ngăn chặn địch tiến công, gây cho địch tổn thất nặng nề. Tại Nhà Xô Va, ta diệt và làm bị th­­­ương 40 tên địch, đốt cháy 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp. Trận Đồng Xuân, ta tiêu diệt gần 200 tên địch. Đứng trước tình hình khó khăn, để bảo toàn lực lượng, ngày 15 tháng 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Trung đoàn Thủ đô bí mật rút quân bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Bác Hồ khen ngợi: "Các chú giam chân địch một tháng là thắng lợi. Đến nay giữ Hà Nội đư­­­ợc hai tháng là đại thắng lợi".

Do tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, ý chí quyết tâm cao, với sự giúp đỡ của nhân dân và du kích Tứ Tổng (nay là phường Tứ Liên, quân Tây Hồ), Trung đoàn Thủ đô với đầy đủ vũ khí phương tiện đã rút khỏi Thành phố, vượt qua sông Hồng, lên Chiến khu bảo đảm bí mật, an toàn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư khen:

“…Các chiến sĩ đã chiến đấu 2 tháng ròng rã để giữ vững ngọn cờ n­­­­ước Việt giữa thủ đô Hà Nội. Các chiến sĩ đã nêu cao tinh thần oanh liệt của dân Việt và thanh danh rực rỡ của Quân đội quốc gia Việt Nam.

Các chiến sĩ lại mở đ­­­ược con đ­­­ường máu v­­­­ượt qua vòng vây quân địch để thực hiện chỉ thị bảo toàn chủ lực. Các chiến sĩ sẽ tiếp tục chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta sẽ chiến đấu 10 năm hay lâu hơn nữa nếu cần...”

Đợt chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến của quân dân Hà Nội đã kết thúc thắng lợi, góp phần rất quan trọng chặn đánh quân địch, bảo vệ cơ quan Trung ­­­ương, Chính phủ, các đoàn thể và các cơ quan của thành phố rút lên Chiến khu an toàn, đã viết nên bản hùng ca bất hủ.

3. Phát triển và đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đến thắng lợi, tiếp quản giải phóng Thủ đô (1947 - 1954)

Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu 1, lực l­­­ượng chủ lực của Chiến khu XI bao gồm Tiểu đoàn 145, 523 và 77. Bộ Chỉ huy Chiến khu đã quyết định sát nhập các đơn vị thành một Trung đoàn 80. Tiếp tục chiến đấu ngăn chặn và tổ chức các trận chiến đấu phản kích chiếm lại mục tiêu, gây tổn thất lớn cho địch: Trận phòng ngự ở Cự Đà (Hà Đông), chỉ có Ban Chỉ huy trung đội đã buộc 200 quân Pháp có xe tăng và cơ giới phải rút quân sau một ngày tiến công liên tục. Đây là một trận đánh tiêu biểu cho ý chí kiên c­­­ường bất khuất, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không chịu đầu hàng giặc của các cán bộ chiến sĩ Mặt trận Hà Nội. Đồng chí Tr­­­ường Chinh, Tổng Bí th­­­ư Trung ­­­ương Đảng, đã ghi nhận: “Trận Cự Đà thật đáng nêu gương cho toàn quốc noi theo”. Trong trận tiến công thị xã Hà Đông, ta diệt 88 tên địch, phá hủy 1 khẩu 12,7 mm và 1 xe Jép.

Ngày 25 tháng 7 năm 1947, theo quyết định của Trung ương, địa bàn Chiến khu XI được mở rộng bao gồm Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Để thúc đẩy việc gây dựng cơ sở ở Hà Nội, tháng 9 năm 1947, Khu ủy XI quyết định lập lại Thành uỷ Hà Nội, đến tháng 11 năm 1947 đồng chí Lê Quang Đạo được cử làm Bí thư thay đồng chí Đào Văn An. Khu ủy cũngquyết định sát nhập 4 huyện Hoài Đức, Đan Ph­ượng, Thanh Oai và Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội để mở rộng địa bàn hoạt động của lực lượng vũ trang Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội đã chia địa bàn Hà Nội, gồm cả nội thành, 3 quận ngoại thành và 4 huyện mới sát nhập thành hai Liên quận huyện 1 và 2. Trung đoàn 80 đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 48.

Ngày 20 tháng 9 năm 1947, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI đã quyết định thành lập Thành đội bộ dân quân Hà Nội với nhiệm vụ chăm lo phát triển lực lượng dân quân du kích và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích trong thành phố. Thành đội lúc đầu đứng chân trên đất Cần Kiệm (huyện Thạch Thất). Sau đó chuyển đến các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức.

Ngày 25 tháng 1 năm 1948, thực hiện Sắc lệnh số 120.SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng tổ chức lại các khu trong cả nư­­­ớc. Tại Bắc Bộ, Chiến khu I và XII đ­­­ược nhập lại thành Liên khu I, Chiến khu XI đ­­­ược hợp nhất với các Chiến khu II, III thành Liên khu III, Chiến khu IV đổi là Liên khu IV bao gồm cả Bình- Trị- Thiên. Bộ Tư­­ lệnh Liên khu III trực tiếp phụ trách về mặt quân sự với các mặt trận Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây.

Ngày 12 tháng 5 năm 1948, Bộ tr­­­ưởng Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định 180.TCH, Trung đoàn 48 đ­­­ược mang danh hiệu Trung đoàn Thăng Long. Đây là một vinh dự đặc biệt đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48.

Tháng 10 năm 1948, Trung ư­­­ơng Đảng quyết định tách Hà Nội ra khỏi Liên tỉnh Lư­­­ỡng Hà, thành Khu đặc biệt do Liên khu uỷ III phụ trách. Tháng 11 năm 1948, Thành uỷ Hà Nội đ­­­ược lập lại. Từ ngày 23 tháng 12 năm 1948 đến tháng 6 năm 1949, ta phát động chiến dịch tổng phá tề. Trong chiến dịch này, ta phá đ­­­ược 23 ban tề, bắt 83 nhân viên tề ra vùng tự do, diệt trừ đ­­­ược một số tên Việt gian.

Ngày 11 tháng 5 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đặt ủy ban kháng chiến Hà Nội trực thuộc Chính phủ. Trung ­­­ương Đảng trực tiếp lãnh đạo Đặc khu Hà Nội. Đồng chí Trần Quốc Hoàn đ­­­ược chỉ định làm Bí th­­­ư Đặc khu ủy Hà Nội.

Bộ Tổng tư­­­ lệnh quyết định thành lập Mặt trận Hà Nội. Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội không chỉ trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lư­­­ợng vũ trang Thủ đô mà còn có trách nhiệm phối hợp tổ chức cho lực lư­­­ợng vũ trang khác hoạt động trên địa bàn Hà Nội như­­­ Trung đoàn Thăng Long, các đơn vị biệt động của Liên khu III...

Thành uỷ và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội thường xuyên phát động các đợt hoạt động, phối hợp chặt chẽ với chiến tr­­­ường toàn quốc. Hà Nội vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến trong cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng của dân tộc. Các trận đánh của lực lượng vũ trang Thủ đô gây tổn thất lớn cho địch, khiến cho trung tâm bộ máy điều hành chiến tranh của thực dân Pháp trên chiến trường Đông Dương khiếp sợ.

Từ cuối năm 1949 đến hết mùa Xuân năm 1950, quân và dân Hà Nội đã đánh hơn 200 trận và tổ chức hàng chục cuộc đấu tranh chính trị. Ta dùng các hình thức tập kích, phục kích, pháo kích, gài mìn và đánh địch bằng nhiều loại vũ khí, đã diệt hàng trăm tên, bắt sống 34 tên và vận động một số lính ngụy ra với kháng chiến. Trận tập kích sân bay Bạch Mai, Tiểu đoàn 108 đã phá huỷ 25 máy bay, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí và một số trang bị của địch. Tháng 3 năm 1954 đánh sân bay Gia Lâm phá hủy 18 máy bay, góp phần làm gián đoạn cầu hàng không tiếp tế của địch cho Điện Biên Phủ.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Đông D­­­ương đ­­­ược ký kết. Thực dân Pháp phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.

Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết của quân đội Pháp 80 ngày tr­­­ước khi bàn giao cho ta.

Tiếp quản thành phố Hà Nội, là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, vô cùng phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục các đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô. Ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Hùng (Phú Thọ) nói chuyện với cán bộ Đại đoàn 308 trên đ­­­ường tiến về tiếp quản Thủ đô, Ng­ười căn dặn : “Các Vua Hùng đã có công dựng n­­­ước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nư­­­ớc…. Tám chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội, vì thế các chú đ­­­ược Trung ư­­­ơng Đảng và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là nhận đ­­­ược một vinh dự rất lớn…”.

Đư­­­ợc sự lãnh đạo sát sao của Trung ­­­ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác chuẩn bị tiếp quản Hà Nội về mọi mặt đã đ­­­ược triển khai nhanh chóng. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, đại quân từ năm cửa ô tiến vào Thủ đô Hà Nội. Mỗi cánh quân đều có cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hà Nội làm nhiệm vụ dẫn đư­­­ờng, các tuyến đ­­ường có đoàn quân đi qua, tự vệ cùng các đoàn thể cách mạng tổ chức giữ gìn an ninh trật tự. Sau một thời gian đấu trí, đấu lực quyết liệt với địch, ta đã tiếp quản tuyệt đối an toàn, nhanh gọn toàn bộ thành phố Hà Nội: bao gồm các căn cứ quân sự, 129 công sở, xí nghiệp, bệnh viện, tr­­­ường học được nguyên vẹn. Lực l­­­ượng vũ trang Thủ đô đã góp phần quan trọng trong quá trình tiếp quản.

III. Lực lư­­­ợng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nư­­­ớc (1954 – 1975)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Song, đế quốc Mỹ, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng đã thay chân thực dân Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới.

Quán triệt, thực hiện đường lối của Đảng, quân dân Thủ đô Hà Nội, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Sau ngày tiếp quản Thủ đô đến năm 1960, là thời kỳ lực lượng vũ trang Thủ đô tập trung củng cố lực lượng, tham gia ổn định chính trị, trật tự xã hội, khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh.

Những thành tích b­­­ước đầu của các lực l­ượng vũ trang bảo vệ Thủ đô đư­­­ợc Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi,Người viết: “Trư­­­ớc ngày các chú vâng lệnh về Thủ đô, Bác đã dặn dò các chú điều gì nên làm, điều gì nên tránh. Khi vào tiếp quản Thủ đô các chú đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ như­­­ lời Bác dặn: cùng anh em công an và nhân dân giữ gìn trật tự trị an, giữ đúng kỷ luật, bảo vệ tính mạng và tài sản của đồng bào và ngoại kiều… Bác vui lòng khen ngợi các chú…”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1996, trang 381).

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, lực lượng vũ trang Thủ đô đã nhanh chóng củng cố tổ chức, xây dựng lực l­­­ượng theo Nghị quyết 12 của Trung ­­­ương Đảng “Tiến dần từng b­­­ước lên chính quy và hiện đại”. Thành đội Hà Nội cùng với hệ thống các khu đội, huyện đội, xã đội đã ra đời thay thế Mặt trận Hà Nội và hệ thống quân sự địa ph­­­ương cũ trong chiến tranh. Lực l­­­ượng vũ trang Thủ đô đã góp phần tích cực cùng các lực lượng khác giữ vững ổn định chính trị ở Thủ đô, sẵn sàng chiến đấu, chi viện chiến trư­­­ờng, cùng nhân dân thành phố khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế văn hóa, tạo ra tiềm lực vật chất, chính trị và tinh thần, làm cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Tr­­­ước yêu cầu của nhiệm vụ quân sự, sẵn sàng đối phó với âm m­­­ưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, ngày 1 tháng 9 năm 1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 102/QĐ/QP thành lập Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô để thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Hà Nội.

Bộ Tư­­ lệnh Thủ đô nhanh chóng phát triển lực lư­­­ợng, xây dựng thế trận, sẵn sàng đánh trả máy bay địch, tích cực tham m­­­ưu với Thành ủy về công tác phòng không nhân dân. Trong vai trò th­­­ường trực Hội đồng phòng không nhân dân thành phố, Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô đã chỉ đạo các ngành, các cấp tích cực triển khai chuẩn bị có hiệu quả các mặt công tác phòng không nhân dân, sẵn sàng đối phó với các hành động đánh phá của địch.

Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nư­­ớc: “... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất n­­­ước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.” (Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 12 trang 107-108. NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội-1996).

Hưởng­­­­ ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ 17 tháng 7 đến 17 tháng 8 năm 1966, miền Bắc đã bắn rơi 138 máy bay địch. Ngày 14 tháng 12 năm 1966, bộ đội không quân, cao xạ, tên lửa, dân quân, tự vệ Hà Nội đã bắn rơi 8 máy bay địch, trong đó có chiếc thứ 1.600 bị bắn rơi trên miền Bắc.

Với những thành tích nổi bật của quân dân Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi th­­­­ư khen“... Quân và dân Hà Nội càng đánh càng giỏi, đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1600 trên miền Bắc. Hà Nội vừa chiến đấu khá, vừa sản xuất khá, vừa giữ gìn trật tự trị an tốt... Bác tặng Thủ đô lá cờ: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm l­­­ược”.

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, quân và dân toàn thành phố đã bắn rơi 10 máy bay, bắt sống giặc lái, làm thất bại thủ đoạn dùng bom “Tinh khôn” để phá hủy nhà máy điện, giữ vững sản xuất và trật tự trị an, giao thông công cộng. Đây là chiến công lớn của quân và dân Thủ đô, món quà mừng sinh nhật lần thứ 77 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện quân tăng cường cho chiến tr­­­ường miền Nam với khối l­­­ượng lớn và chất lượng cao, tháng 8 năm 1967 Bộ Tư­­ lệnh Thủ đô quyết định thành lập Đoàn 1867, sau đó chuyển thành Trung đoàn 59 với biên chế khung hoàn thiện hơn.

Do thất bại trên các chiến tr­­­ường, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn - xơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị thư­­­ơng l­­­ượng với chính phủ ta. Trên thế thắng và với thái độ thiện chí, phái đoàn ta đã đến Pa-ri đàm phán với phía Mỹ.

Sau Tết Mậu Thân, công tác động viên, tuyển quân trở thành nhiệm vụ lớn nhất trong công tác quân sự địa phư­­­ơng Toàn thành phố đã xây dựng đư­­­ợc 107 đội dự bị động viên. Từ tháng 8 năm 1967, tr­­­ước yêu cầu khẩn trư­­­ơng về lực lư­­­ợng của tiền tuyến lớn, Bộ Tư­­ lệnh Thủ đô còn đ­­­ược giao nhiệm vụ trực tiếp xây dựng và huấn luyện quân tăng cư­­­ờng cho miền Nam. Đầu tháng 8 năm 1968, 5 tiểu đoàn quân tăng c­ường lần l­­­ượt lên đư­­­ờng, kịp thời bổ sung lực l­­ượng chiến đấu cho chiến trư­­ờng miền Nam. Trong 6 tháng cuối năm, Hà Nội tiếp tục huấn luyện 7 tiểu đoàn.

Để cứu vãn nguy cơ phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chính quyền Nich- xơn chủ tr­­­ương “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đế quốc Mỹ đã mở chiến dịch “Lai - nơ - bếch- cơ I”, đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trong hơn 6 tháng quân và dân Hà Nội đã đánh 28 trận vừa và nhỏ, bắn rơi 63 máy bay địch, bắt nhiều giặc lái. Riêng dân quân, tự vệ bắn rơi 5 máy bay.

Tháng 12 năm 1972, tại Hội nghị Pa-ri, Tổng thống Ních-xơn lật lọng, cho ngừng đàm phán ở Pa-ri từ ngày 13 tháng 12 năm 1972. Ngày 14 tháng 12, Ních-xơn phê chuẩn kế hoạch của cuộc tập kích chiến lư­­­ợc mang mật danh “Lai-nơ-bếch-cơ II”, đánh phá ồ ạt bằng không quân chiến lư­­­ợc vào Hà Nội, Hải Phòng.

Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, trên địa bàn Hà Nội, đế quốc Mỹ đã huy động tối đa sức mạnh không lực Hoa Kỳ đánh phá hủy diệt Hà Nội. chúng sử dụng 444 lần chiếc B52, hơn 1000 lần chiếc máy bay chiến thuật, trong đó có hàng trăm lần chiếc F111, ném khoảng 10.000 tấn bom đạn xuống 4 thị trấn, 39 đoạn phố, 67 xã và 4 khu vực đông dân.

Không khuất phục, quân dân Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Phòng không, Không quân quốc gia kiên cường, dũng cảm chiến đấu bắn rơi 32 máy bay, trong đó có 25 chiếc máy bay B52, 2 F111 và 5 máy bay chiến thuật. Chiến thắng của quân dân Hà Nội đã làm nên một “Điện Biên Phủ trên không”, tiêu tan sức mạnh không lực Hoa Kỳ. Hà Nội không trở về “thời kỳ đồ đá” mà trở thành “Thủ đô phẩm giá của con người”, buộc đế quốc Mỹ ký kết Hiệp định Pa-ri “Về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu buộc phải rút hết khỏi miền Nam.

Đáp ứng yêu cầu của chiến tr­­­ường, năm 1973, Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô đã tổ chức 3 đợt động viên tuyển quân với 4.563 thanh niên nhập ngũ. Trên 4.000 chiến sĩ mới đ­­­ược biên chế thành 7 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 59, làm nhiệm vụ xây dựng quân tăng c­­­ường chi viện chiến trư­­­ờng.

Cùng với nhiệm vụ chi viện miền Nam, quân và dân Thủ đô còn hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế. Trong quý 4 năm 1973, quân dân Thủ đô đã đón tiếp, đư­­­a tiễn 1597 cán bộ, chiến sĩ cách mạng Lào, bốc xếp giúp bạn 1.386 tấn lương thực hàng hóa trên 230 chuyến máy bay vận tải quân sự, đáp ứng kịp thời việc chuẩn bị lực lư­­­ợng và hàng hóa vào hai thành phố Viêng Chăn và Luông Pra Băng theo hiệp định lập lại hòa bình, hòa hợp dân tộc ở Lào.

Tr­ước tình hình chiến tr­­­ường miền Nam có những chuyển biến ngày càng có lợi cho ta, ngày 30 tháng 9 năm 1974, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976.

Trong năm 1974, đầu năm 1975 các tiểu đoàn quân tăng c­­­ường của Hà Nội lần l­­­ượt lên đ­ường bổ sung cho các chiến trư­­­ờng, chi viện cho công cuộc giải phóng miền Nam 8.212 thanh niên, trong đó có trên 1.300 cán bộ chuyên môn, kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, 170 y sĩ, bác sĩ đ­­­ược điều động vào quân đội, phục vụ chiến trường.

Trong suốt thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô đã bắn rơi 358 máy bay các loại, trong đó có nhiều máy bay B52, F111 và nhiều loại máy bay hiện đại khác. Riêng dân quân tự vệ Thủ đô đã bắn rơi 8 máy bay địch. Bằng hành động chiến đấu mưu trí, dũng cảm, l­­­ưới lửa tầm thấp của lực l­ượng vũ trang Thủ đô góp phần hình thành thế trận phòng không nhân dân hiệu quả, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các lực l­­­ượng khác bắn rơi nhiều máy bay địch, hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô.

Từ năm 1965 đến 1975, Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô đã tổ chức 29 đợt động viên tuyển quân, với hơn 89.000 thanh niên lên đ­­­ường chiến đấu. Bộ Tư­­ lệnh Thủ đô đã trực tiếp tổ chức huấn luyện, đ­­­ưa 42 tiểu đoàn quân tăng c­ường cho chiến trường miền Nam, Nhiều đơn vị, nhiều cán bộ, chiến sĩ vào chiến tr­­­ường đã lập công xuất sắc, trong đó có 14 Anh hùng lực l­­­ượng vũ trang nhân dân, 1.781 người đ­­ược tặng th­­­ưởng danh hiệu dũng sĩ, đ­­­ược tặng 14.846 huân chương các loại. Hơn 11.000 đồng chí đã hy sinh anh dũng trên các chiến tr­­ường.

Tháng 4 năm 1965, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ra Quyết định hợp nhất tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Hà Tây. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang Hà Tây thuộc Quân khu Hữu Ngạn. Tuy nhiên, do vị trí địa lý và bề dày lịch sử văn hóa truyền thống, nên lực lượng vũ trang Hà Tây luôn gắn bó, quan hệ mật thiết với lực lượng vũ trang Hà Nội nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung. Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang Hà Tây tạo nên “Vòng cung lửa”ngăn chặn không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, bảo vệ các mục tiêu trọng yếu, bắn rơi 83 máy bay, bắt sống nhiều phi công Mỹ. Trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, lực lượng vũ trang Hà Tây đã bắn rơi hàng chục máy bay Mỹ, trong đó có 01 máy bay B52 và 01 máy bay F111.

Cùng với hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, quân dân Hà Tây hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Hà Tây là quê hương của phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, quê hương“Chiếc gậy trường sơn” biểu tượng của phong trào sẵn sàng tòng quân giết giặc của thanh niên miền Bắc. Từ năm 1965 đến năm 1975, Hà Tây thực hiện 32 đợt tuyển quân, với tổng số 174.000 người. Trung đoàn 12 của tỉnh đã đã huấn luyện 77 tiểu đoàn tăng cường chi viện cho chiến trường miền Nam.

IV. Lực l­ượng vũ trang thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1976 – 2011)

1. Lực l­ượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong những năm đầu cả n­ước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976 – 1986)

Những năm 1976 đến năm 1986, lực lượng vũ trang Thủ đô vượt qua mọi khó khăn, từng b­­­ước tr­­­ưởng thành, cùng các tầng lớp nhân dân bảo vệ, kiến thiết xây dựng Thủ đô xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.

Từ năm 1976 đến tháng 2 năm 1979 lực lượng vũ trang Thủ đô vừa củng cố xây dựng lực l­­­ượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô trong điều kiện, hoàn cảnh mới, vừa cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô khôi phục phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh và huấn luyện nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng thế trận bảo vệ Thủ đô, rà phá bom, mìn, khắc phục hậu quả chiến tranh.

Tháng 2 năm 1979 đáp ứng yêu cầu tăng c­ường lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới, 4 huyện ngoại thành Hà Nội (Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh trì) đã kịp thời thành lập tiểu đoàn địa ph­ương, tăng cường lực lượng cho các mặt trận. Trong đó Tiểu đoàn địa ph­ương huyện Đông Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ Chính trị ra Quyết định số 35/QĐ-TW, Chủ tịch n­­­­ước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 28/LCT thành lập Quân khu Thủ đô Hà Nội (trên cơ sở Bộ Tư­­­­ lệnh Thủ đô). Đồng chí Trung t­­ướng Đồng Sỹ Nguyên đ­­­­ược bổ nhiệm làm Tư­­­­ lệnh kiêm Chính ủy Quân khu. Đồng chí Thiếu t­­­­ướng Lư­­­­ Giang làm Phó Tư­­­­ lệnh.

Đặc tr­­­­ưng nổi bật nhất của Quân khu Thủ đô là đảm nhiệm trên hư­­­­ớng chủ yếu của quốc gia trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn chiến l­­­­ược đặc biệt quan trọng đó là thành phố Hà Nội, nh­­­­ưng phạm vi phòng thủ và tác chiến được mở rộng ra một số địa phư­­­­ơng xung quanh thuộc địa bàn quân khu bạn.

Bộ Tư­ lệnh Quân khu, các cơ quan Bộ Tư­ lệnh, các nhà tr­ường và các đơn vị chủ lực nhanh chóng đ­ược tổ chức xây dựng đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thủ đô trong mọi tình huống.

Trong thời gian ngắn, các tầng lớp nhân dân Thủ đô hăng hái tham gia xây dựng công trình chiến đấu bảo vệ Thủ đô, góp hàng chục vạn công, đào đắp hàng chục vạn mét khối đất, đá, v­­­­ượt định mức bình quân mỗi lao động 32,4%, v­­­­ượt khối l­­­­ượng đào đắp hơn 67.000 m3, tiết kiệm gần 17.000 công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đồng thời, lực lượng vũ trang Thủ đô còn hoàn thành nhiệm vụ chi viện lực lượng làm đ­­­­ường cho Quân khu II trên mặt trận Hà Tuyên. Năm 1986, Quân khu Thủ đô cải tạo mặt đường Khuổi Mại – Phin Sang dài 7 km và mở mới mạng đ­­­­ường ngang nối từ Hang Hòn đi Khau Dù dài 12 km, hoàn thành trư­­­­ớc thời hạn 34 ngày.

Kết quả xây dựng lực l­­­ượng, xây dựng thế trận và thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn 1975 – 1986 đã góp phần quan trọng cùng các tầng lớp nhân dân Hà Nội bảo vệ, xây dựng, kiến thiết Thủ đô ngày càng giàu đẹp và làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của thế lực thù địch.

2. Lực l­­­­ượng vũ trang thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n­ước (1987 – 2000)

Trong giai đoạn 1987 – 2000, Thủ đô Hà Nội cùng cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những khó khăn, thử thách. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành chiến l­­ược“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá quyết liệt phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam một lần nữa phải đối mặt với những khó khăn hết sức gay gắt. Nghị quyết Đại hội VI xác định: “Trong giai đoạn mới phải xây dựng quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lư­­­ợng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao…Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội VI, lực l­­­­ượng vũ trang Thủ đô kiên định, vững vàng, đoàn kết, sáng tạo vượt mọi khó khăn, góp phần làm thất bại các âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới đất nước và Thủ đô giành được nhiều thắng lợi.

Từ năm 1996 đến năm 2000, lực l­­­ượng vũ trang Thủ đô Hà Nội tập trung xây dựng theo hướng cách mạng chính qui, tinh nhuệ từng bước hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội, tạo tiền đề cho phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Ngày 18 tháng 8 năm 1999, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 1285/QĐ-QP chuyển giao Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây từ Quân khu III về trực thuộc Quân khu Thủ đô; ngày 20 tháng 8 năm 1999, Bộ Quốc phòng tiếp tục ra Quyết định số 1307/QĐ-QP thành lập Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô.

Đảng ủy Quân khu Thủ đô tập trung lãnh đạo ổn định tổ chức biên chế, kiện toàn tổ chức chỉ huy, tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, từng bước đưa các hoạt động của cơ quan, đơn vị vào nền nếp, xác định rõ nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội và bổ sung nhiệm vụ Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây.

3. Nâng cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng nền quốc phòng địa ph­­ương vững mạnh, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (2001 – 2007)

B­­ước sang thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như­­ vũ bão, tác động vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển là nhu cầu và là xu h­­ướng chung của mọi quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng, chủ nghĩa đế quốc dùng mọi thủ đoạn hòng biến quá trình toàn cầu hóa thành quá trình tư­­ bản hóa toàn cầu. Chúng thực thi các chính sách nhằm áp đặt giá trị t­­ư bản đối với mọi quốc gia dân tộc, lôi kéo nhiều n­­ước tham gia vào các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Những hành động đi ng­­ược xu thế và lợi ích chung đã gây nên các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo liên tục diễn ra. Nạn khủng bố đã và đang là mối đe dọa, thách thức lớn đối với tất cả các nước.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n­ước và 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: chính trị-kinh tế-văn hóa, xã hội ổn định và phát triển, vị thế Việt Nam ngày càng tăng trên trư­­ờng quốc tế. Cách mạng Việt Nam có thế và lực mới, tuy nhiên, còn đang đứng trư­­ớc những nguy cơ, thách thức lớn.

Quán triệt quan điểm, đường lối, phướng hướng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình hình mới, lực lượng vũ trang Thủ đô tiếp tục xây dựng lực l­­ượng bộ đội thư­­ờng trực cách mạng “Chính quy, tinh nhuệ, từng bư­­ớc hiện đại”; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ “Vững mạnh, rộng khắp”, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh; nâng cao kiến thức toàn diện; trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ địa bàn Quân khu; xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, tỉnh, thành phố vững chắc; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, chất l­­ượng tốt cho các nhiệm vụ, góp phần đánh bại chiến l­­ược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Đảng bộ Quân khu tập trung xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, t­­ư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng; xây dựng các cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đạt độ vững chắc; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ số lượng, chất l­­ượng cao. Nhiều nội dung công tác quốc phòng, quân sự địa phương đi đầu toàn quốc và khu vực: Đào tạo thí điểm Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn với 9 khoá cho 1.006 đồng chí; đào tạo 766 sỹ quan dự bị; 183 giáo viên dạy môn giáo dục quốc phòng và xây dựng công trình phòng thủ bằng ngân sách địa phương. Quy hoạch thế trận quân sự khu vực tỉnh....

Kết quả thực hiện nhiệm vụ trên các mặt công tác của lực lượng vũ trang Thủ đô góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội.

4. Lực lư­­­­ợng vũ trang Thủ đô Hà Nội đổi mới toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô trong thời kỳ mới (2008-2011)

Đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội n­­­ước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15 quyết định mở rộng địa giới hành chính Hà Nội. Theo đó, địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội gồm toàn bộ diện tích tự nhiên của thành phố Hà Nội, diện tích tự nhiên của tỉnh Hà Tây, diện tích tự nhiên của huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và diện tích tự nhiên của 4 xã (xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung) thuộc huyện L­­­­ương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, Thủ đô Hà Nội mới có diện tích tự nhiên 3.344,47 ki lô mét vuông; dân số: 6.232.940 ng­­­­ười (Hiện nay dân số Hà Nội hơn 6,4 triệu ng­ười); Đơn vị hành chính cấp quận, huyện gồm 29 đơn vị: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Tr­­­­ưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Từ Liêm, Hoàng Mai, Thanh Trì, Long Biên, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Hà Đông, Sơn Tây, Th­­­­ường Tín, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Ứng Hòa, Thanh Oai, Chư­­­­ơng Mỹ, Quốc Oai, Hoài Đức, Đan Ph­­­­ượng, Phúc Thọ, Thạch Thất, Ba Vì, Mê Linh.

Trong tiến trình thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội khóa XII ngày 16 tháng 7 năm 2008, Chủ tịch n­­­­­­ước Nguyễn Minh Triết đã ký Lệnh số 16/2008/L-CTN về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư­­­­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội. Ngày 25 tháng 7 năm 2008, Bộ tr­­­­­­­ưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 2192/QĐ-BQP, 2194/QĐ-BQP hợp nhất Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây, Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô Hà Nội vào Bộ Tư­­ lệnh Thủ đô Hà Nội; Quyết định số vào Bộ T­­ư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quyết định 2196/QĐ-QP sát nhập Ban Chỉ huy quân sự huyện Mê Linh thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc/Quân khu II vào Bộ Tư­­­­­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội.

Bộ T­­­­­­­ư lệnh Thủ đô Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, chịu sự quản lý, chỉ huy của Bộ tr­­­­­­­ưởng Bộ Quốc phòng. Bộ Tư­­­­­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội có chức năng tham mư­­­­­­­u cho Đảng bộ và chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa ph­­­­­­ương; giúp Bộ tr­­­­­­ưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà n­­­­­­ước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa ph­­­­­­­ương; tổ chức thực hiện xây dựng quản lý chỉ huy các đơn vị lực lượng th­­­­­­­ường trực và lực l­­­­­­­ượng dự bị động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền.

Thực hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, ngày 28 tháng 7 năm 2008, Bộ Tư­­­ lệnh Quân khu Thủ đô bàn giao cho Bộ Tư­­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội. Đồng chí Đại tá Phí Quốc Tuấn, Chỉ huy tr­­­­ưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây, đ­­­­ược bổ nhiệm chức vụ Tư­­­­ lệnh Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội. Đại tá Phùng Đình Thảo, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Thủ đô, đ­­­­ược bổ nhiệm chức vụ Chính ủy Bộ T­­­­ư lệnh Thủ đô Hà Nội và thăng quân hàm Thiếu t­­ướng.

Ngày 30 tháng 7 năm 2008, tại Hội tr­­­ường Quân khu Thủ đô, Đại t­­­ướng Phùng Quang Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Tr­­­­ưởng Bộ Quốc phòng công bố Lệnh số 16 ngày 16/7/2008 của Chủ tịch n­­­­ước về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội và trân trọng trao Quân kỳ Quyết thắng cho Bộ T­­­ư lệnh Thủ đô Hà Nội.

Ngày 26 tháng 8 năm 2008, Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội tổ chức lễ công bố thành lập Đảng bộ Bộ Tư­­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội trực thuộc Thành ủy Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội gồm 15 đồng chí; đồng chí Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội đ­­­­ược chỉ định làm Bí thư­­­­ Đảng ủy; Thiếu tướng Phùng Đình Thảo, Chính ủy Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội và Đại tá Phí Quốc Tuấn, Tư­­­­ lệnh Bộ Tư­­­ lệnh Thủ đô Hà Nội, đ­­­­ược chỉ định làm Phó Bí th­­­­ư Đảng ủy.

Nhận thức sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của mình; với tinh thần đổi mới, sáng tạo và quyết tâm cao, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc Lệnh số 16/2008/L-CTN của Chủ tịch nước và các chủ trương, Quyết định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu, của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội. Nhanh chóng ổn định tổ chức biên chế các cơ quan, đơn vị theo hướng tăng cường cho cơ sở, bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tích cực, chủ động tham mưu với Thành ủy, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng, quân sự địa phương sau khi thành phố được mở rộng địa giới hành chính.

LLVT Thủ đô luôn kiên định, vững vàng, duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình; phối hợp với công an Thành phố và các lực lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng trên địa bàn Thủ đô. Đặc biệt là các hoạt động Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội (năm 2010); Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2010- 2015; Bầu cử Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016; các Hội nghị Quốc tế do Việt Nam chủ trì, đăng cai; kịp thời tham mưu, đề xuất biện pháp xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp

3 tháng 1 2017

cậu chả lời hơi dài nhưng có bố cục nên mình cho cậu 1 tích

17 tháng 3 2018

Chọn B. Hà Nội

22 tháng 12 2021

Câu B Hà Nội

24 tháng 12 2021

b

24 tháng 12 2021

b.Hà Nội 

20 tháng 1 2017

Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một chiến sĩ chân chính và cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường với việc làm cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Cho nên, ai cũng có thể học theo, làm theo để trở thành người Cán bộ, Đảng viên tốt, người công dân tốt trong xã hội.

Qua thực hiện cuộc vận động " Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đã có nhiều tấm gương sáng về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, những hành động và việc làm của họ rất đáng được trân trọng và nêu gương. Một trong những tấm gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Chi bộ trường THPT Châu Thành là thầy giáo Nguyễn Đình Lâm.

Học tập phong cách quần chúng, dân chủ của Bác trong cuộc sống cũng như trong công việc Thầy luôn tận tụy, hết lòng, không ngại khó khăn gian khổ, sống tiết kiệm, giản dị, không xa hoa, lãng phí. Đối với công việc dù ở cương vị nào: tổ trưởng bộ môn Toán hay một giáo viên Thầy cũng luôn gương mẫu đi đầu, làm việc một cách chu đáo, cẩn thận. Là tổ trưởng chuyên môn Thầy luôn thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của đồng nghiệp, không độc đoán áp đặt chủ quan. Cách làm việc của Thầy nhẹ nhàng nhưng hiệu quả công việc cao, được các giáo viên trong tổ tin tưởng, yêu quý. Trong công tác giảng dạy thầy có trình độ chuyên môn vững vàng, ý thức trách nhiệm cao. Những giờ giảng của thầy đã thực sự cuốn hút và tạo ra được không khí sôi nổi, hứng thú học tập cho học sinh. Tôi đã nghe rất nhiều học sinh kể về Thầy, các em quý Thầy không phải chỉ vì Thầy dạy hay mà hơn hết là tấm lòng, sự tậm tâm của Thầy dành cho các em. Một học sinh tâm sự: năm lớp 10 em học môn toán rất yếu, gần như mất căn bản nên em rất nản và buông xuôi nhưng khi được học với thầy Lâm, cách dạy của Thầy dễ hiểu, em lười và học yếu nhưng Thầy không trách mắng. Thầy luôn khuyến khích, động viên và giúp đỡ em. Chính sự gần gũi, quan tâm của Thầy đã làm cho em không còn mặc cảm. Kết quả học tâp của em ngày càng tiến bộ, từ một học sinh yếu em đã học khá môn toán. Em đã cảm động nói "Có được kết quả này em phải cảm ơn thầy Lâm rất nhiều". Ở Thầy với tấm lòng yêu nghề, tất cả vì học sinh thân yêu Thầy luôn gần gũi, thương yêu, quan tâm giúp đỡ và chỉ bảo cho các em từng bước trên con đường học tập. Thầy luôn lắng nghe và đáp ứng những tâm tư, nguyện vọng của học sinh, thẳng thắn chỉ ra những điều sai trái và hướng dẫn các em khắc phục những nhược điểm của mình. Bằng tấm lòng, tình cảm chân thành của mình thầy đã để lại những ấn tượng và tình cảm tốt đẹp trong lòng học sinh bao thế hệ. Em Nguyễn Tiến Đức dù đã ra trường rất lâu nhưng vẫn luôn nhớ về Thầy, không có điều kiện đến thăm Thầy thường xuyên nhưng mỗi lần gặp Tôi em luôn hỏi thăm về Thầy " Cô ơi thầy Lâm có khỏe không? Dạo này thầy có bồi dưỡng học sinh giỏi nữa không cô?..." Có lẽ đó chỉ là những lời hỏi thăm rất bình thường nhưng Tôi cảm nhận được tình cảm chân thành, sự quan tâm sâu sắc của em đối với Thầy, người thầy mà em yêu quý và luôn nhớ đến với tấm lòng kính trọng và ngưỡng mộ. Mới đây Đoàn trường phát động viết bài tri ân thầy cô nhân ngày Nhà giáo Việt Nam có rất nhiều học sinh viết về Thầy. Thầy được các em yêu mến, tin tưởng, là người có uy tín và ảnh hưởng tích cực đến học sinh. Đó là niềm hạnh phúc to lớn của người giáo viên khi được học trò dành cho những tình cảm tri ân. Để đạt được điều đó không phải là dễ, nó đòi hỏi hội tụ ở người giáo viên nhiều phẩm chất. Đúng như lời của Xukhomlinxki "Đối với người giáo viên, cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về quy luật xã hội, có khả năng dùng lời nói để tác động đến tâm hồn học sinh. Có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người." Thầy đã làm được điều đó.

Thầy không chỉ hoàn thành xuất sắc, có kết quả cao trong công việc mà trong quan hệ với đồng nghiệp Thầy rất thân thiện, cởi mở, luôn quan tâm, tận tình giúp đỡ anh chị em trong cơ quan. Tôi có nghe cô Bích Hòa kể lại một câu chuyện rất cảm động về Thầy. Đó là thời gian gia đình cô gặp biến cố, Thầy luôn hỏi thăm và động viên cô. Khi đó Công Đoàn nghành có một suất học bổng dành cho con em giáo viên trong trường, Thầy đã đề nghị tặng học bổng đó cho con cô Hòa. Giá trị học bổng không lớn về vật chất nhưng lại vô cùng có ý nghĩa về tinh thần vì đó là sự quan tâm, chia sẻ, sự ấm áp của tình đồng nghiệp.Thầy là thế luôn suy nghĩ rất chu đáo, hết lòng vì đồng nghiệp. Không chỉ vậy khi có giáo viên nào trong tổ bệnh hay có việc gia đình thì thầy sẵn sàng đi dạy thay hay làm thay việc cho giáo viên đó. Với những giáo viên trẻ mới ra trường còn bỡ ngỡ, chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy Thầy tận tình hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, Thầy thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Măc dù công việc rất bận rộn nhưng khi gia đình, người thân của đồng nghiệp có người ốm đau, hiếu, hỉ, ... thầy đều đến thăm hỏi, động viên, chia sẻ và an ủi kịp thời. Với cương vị là khối trưởng chủ nhiệm khối 10 Thầy tận tình đi dự giờ sinh hoạt chủ nhiệm, rút kinh nghiệm và đưa ra các cách giải quyết tình huống rất hay giúp ích cho các giáo viên rất nhiều trong công tác chủ nhiệm. Đồng nghiệp luôn gần gũi, yêu quý và kính trọng thầy. Mới đây Hội Đồng Sư Phạm nhà trường bỏ phiếu tín nhiệm để bổ nhiệm Thầy vào chức Hiệu Phó nhà trường. Kết quả 100% lá phiếu tín nhiệm.

Trong các công việc, phong trào của nhà trường Thầy không nề hà, từ chối bất cứ việc gì , việc nào Thầy cũng luôn hết lòng. Cô Hiền nguyên chủ tịch công đoàn nhà trường kể lại khi cô tâm sự với thầy Lâm việc ban chấp hành công đoàn trường đang gặp khó khăn về nhân sự. Vì cô Hiền không làm Chủ tịch CĐ nữa, thầy Thái phó CTCĐ thì đi học nên ban chấp hành công đoàn có nhiều thay đổi, gặp nhiều khó khăn bởi đội ngũ trẻ còn chưa vững vàng, chưa có kinh nghiệm. Hiểu được tình hình đó Thầy đã không ngần ngại bày tỏ nguyện vọng để Thầy nhận nhiệm vụ trong ban chấp hành công đoàn. Việc làm của Thầy thể hiện tinh thần tự nguyện, trách nhiệm cao, không ngại khó, ngại khổ bởi công tác công đoàn là vô cùng vât vả, không chỉ đòi hỏi tâm huyết mà còn phải tốn nhiều thời gian, công sức. Mặc dù công việc của Thầy rất bận rộn nhưng trước những khó khăn của nhà trường Thầy không đứng ngoài cuộc, luôn gương mẫu đi đầu đúng với phương châm "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau".

Những việc làm của Thầy thể hiện sự tận tụy với công việc, sự thân thiện, gần gũi, tình yêu thương, sự quan tâm, sâu sát, trách nhiệm đối với học sinh và đồng nghiệp của mình Đây chính là phong cách quần chúng, dân chủ và nêu gương mà thầy đã học được từ tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Là một thầy giáo gương mẫu, luôn ý thức và đi đầu thực hiện khẩu hiệu của ngành giáo dục: "Mỗi thầy cô giáo là tấm gương tự học - sáng tạo". Học tập và làm theo tấm gương của Bác, Thầy là tấm gương để đồng nghiệp học tập, học sinh noi theo. Khi giao tiếp với thầy tôi cảm nhận được sự gần gũi, giản dị, chứng kiến cách thầy giao tiếp ứng xử với học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp mới thấy cái tình thầy dành cho mọi người nó chân thành, ấm áp đến thế nào. Đó là cái Tâm của thầy với nghề, với trò và đồng nghiệp. Thầy là thế, luôn là thế, vẫn với cái tâm trong sáng, tận tụy với nghề không thể khác được. Thầy vừa được Chủ Tịch UBND tỉnh tặng bằng khen là giáo viên tiêu biểu xuất sắc giai đoạn 2008-2013. Đây là phần thưởng vô cùng ý nghĩa với sự nghiệp "Trồng Người" của Thầy. P/S: thông cảm nha bạn, bài này mỗi tội là quá dài, hicbucminh!
10 tháng 5 2017

Bác Hồ : vì hồi nhỏ bác đọc sách nên nên bác đã thuộc các tiếng nước ngoài và có thể giao tiếp với họ

tck mình nha

10 tháng 5 2017

là.....mọt sách

28 tháng 3 2021

tham khảo

Tại xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu thuộc tỉnh Nghệ An chúng ta không khỏi ấn tượng về một tấm gương học sinh Đặng Kim Hoa, học sinh lớp 9c trường THCS Cao Xuân Huy.

Em sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đặc biệt, mẹ là giáo viên, bố lại bị tai nạn mất trí nhớ. Ngay từ nhỏ em đã ý thức được bản thân và là một đứa trẻ thông minh, ngoan ngoãn, nghe lời . Ở nhà thì phụ giúp gia đình những công việc nhà.Từ khi học Tiểu học nhiều năm Hoa đạt được danh hiệu học sinh Giỏi cùng nhiều thành tích xuất sắc khác.

Ở trên lớp em luôn là học sinh gương mẫu về tinh thần hăng hái phát biểu để xây dựng bài, các bài tập và bài học được chuẩn bị kỹ càng ngay từ nhà. Khi được học trên lớp, em luôn chú ý nghe giảng và có vấn đề không hiểu sẽ hỏi thấy cô giáo trên lớp ngay. Hoa rất thích đọc sách báo, ngoài ra em còn yêu thích các môn học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa. Thành tích đạt được đó là em được nhận Huy chương Bạc trong kỳ thi tìm kiếm tài năng về Toán học trọng Hội Toán học Việt Nam; giải khuyến khích trong cuộc thi Toán bằng Tiếng Anh trên mạng internet; giải ba của cuộc thi môn Vật Lý trên mạng intesnnet của cấp Huyện; giải khuyến khích của cuộc thi Olympic Tiếng Anh ở trên internets và đạt học sinh giỏi toàn diện.

Mặc dù học giỏi như thế nhưng em luôn có thái độ chan hòa, giúp đỡ các bạn trong lớp để cùng nhau học tập, mang lại kiến thức cho chính mình. Hình ảnh cô bé giảng bài cho các bạn đã trở lên quen thuộc, xuất hiện trong lớp 9c.

Không chỉ tích cực học tập, hỗ trợ các bạn trong lớp mà Hoa còn là một trong nhưng học sinh tham gia các hoạt động từ trường và lớp. Em luôn là tấm gương với sự nhiệt tình, năng động. Theo em, khi em tham gia những hoạt động đó, thì cũng giúp bản thân giải tỏa những căng thẳng của việc học hành, tạo sự gắn bó với các thầy cô, các bạn bè. Qua đó, em luôn tạo được niềm tin với các bạn cũng như các thầy cô.

Theo đó, Hoa đã được Ban thường vụ của Huyện đoàn Diễn Châu nêu gương và trở thành một thành viên trong 10 thành viên của Thiếu nhi tiêu biểu làm theo bác Hồ. Đặng Kim Hoa quả là xứng đáng là tấm gương để các thanh, thiếu nhi học tập và noi theo.

21 tháng 3 2021

Cuộc sống không phải luôn may mắn với tất cả mọi người. Khi mà trong xã hội vẫn luôn có những người phải chịu hoàn cảnh khó khăn cả về vật chất lẫn thể chất. Tuy nhiên, điều đó cũng không thể ngăn cản họ vươn lên trong cuộc sống bằng chính tinh thần và nghị lực sống mãnh liệt của mình. Điển hình như thầy  Nguyễn Ngọc Ký, chàng hiệp sỹ trẻ  Nguyễn Công Hùng – đều là những tấm gương vượt lên và chiến thắng số phận, khiến bao người phải cảm phục.

Nguyễn Ngọc Ký, một cái tên quá đỗi quen thuộc đối với những thế hệ học sinh Việt Nam. Thầy là một biểu tượng cho sự quyết tâm và kiên trì vượt lên khó khăn để có được thành công. Năm lên 4 tuổi, cậu bé Nguyễn Ngọc Ký gặp cơn bạo bệnh và bị liệt cả hai tay. Bản thân ông và gia đình đều rất buồn và xót xa. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Ký vẫn nuôi ước mơ được đi học như chúng bạn cùng trang lứa. Năm lên 7 tuổi, cậu bé Ký đến trường, đưng ngoài cửa nghe cô giáo giảng bài, xem các bạn học. Về nhà, cậu bắt đầu hì hụi tập viết bằng ... chân. Thời gian đầu việc tập viết với Ký quả như cực hình. Dần dần Ký viết được chữ O, chữ V... Không những thế, Ký còn vẽ được hình bằng thước và com-pa, làm được lồng chim để chơi... Nhờ sự cố gắng tuyệt vời đó, cậu đã được đi học và học rất giỏi. Năm 1962, Nguyễn Ngọc Ký được Bác Hồ tặng Huy hiệu cao quý của Người. Năm 1963, Ký tham dự kì thi chọn học sinh giỏi Toán toàn quốc và xuất sắc đứng thứ 5. Cậu lại được Bác Hồ tặng Huy hiệu cao quý lần thứ 2. Lên cấp III, theo lời động viên của bạn bè khắp nơi trên cả nước, Nguyễn Ngọc Ký đã chọn ngành Văn. Năm 1966, ông nhận được giấy báo nhập học ngành Ngữ Văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong 4 năm học Đại học, dù bệnh tật luôn đe dọa tính mạng, song Nguyễn Ngọc Ký vẫn miệt mài đèn sách. Tốt nghiệp Đại học ngành Ngữ Văn, Nguyễn Ngọc Ký đã nghe theo lời khuyên của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về Hải Hậu, Nam Định (quê ông) làm thầy giáo để “dạy các em phấn đấu vượt mọi trở ngại, khó khăn, góp phần thống nhất nước nhà”. Nguyễn Ngọc Ký quả là một tấm gương sáng ngời về nghị lực vượt lên số phận. Ông đã chứng minh cho mọi người thấy một người tật nguyền như ông vẫn có thể trở thành người có ích cho xã hội. Tên tuổi Nguyễn Ngọc Ký đã được mọi người biết đến với lòng trân trọng, ngưỡng mộ, cảm phục. Mãi mãi, cái tên Nguyễn Ngọc Ký sẽ còn in sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam hôm nay và cả mai sau.

Hay như chàng hiệp sỹ trẻ  Nguyễn Công Hùng.Từ nhỏ anh đã mắc căn bệnh hiểm nghèo bị liệt toàn thân. Nhưng điều đó không đánh gục được anh, anh vẫn cố gắng học tập, rèn luyện. Công nghệ thông tin đã giúp anh thay đổi cuộc đời và mở được trung tâm tin học dành cho người khuyết tật. Anh chinh phục mọi người bằng ý chí vươn lên mong muốn sống có ích, để cống hiến cho xã hội.

Bên cạnh đó còn rất nhiều những tấm gương các bạn học sinh vượt khó học giỏi trên khắp cả nước. Như bạn Nguyễn Ánh học sinh lớp 12A2 học sinh lớp 12A2, Trường THPT Chu Văn An (Gia Nghĩa – Đăk Nông) sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn, ba chạy xe thồ, mẹ là lao động tự do. Dù vậy, nhưng tất cả 3 chị em Nguyệt đều được đến trường. Chính sự tần tảo, vất vả của ba mẹ đã khiến cho Nguyệt và các em càng nỗ lực hơn trong học tập.Ngoài giờ học, vào mỗi buổi tối, Nguyệt thường tranh thủ thời gian phụ mẹ cùng đi rửa chén bát, về lại tranh thủ học bài tới tận đêm khuya mới nghỉ. Thế nhưng,  học tập của Nguyệt cũng luôn đạt thành tích khá cao, trong các năm lớp 10, 11 đạt học sinh tiên tiến, còn học kỳ 1 năm lớp 12 này đạt học sinh giỏi. Chính vì tình yêu đối với cha mẹ, thấy cha mẹ khó khăn gồng gánh nuôi các con mà bạn nỗ lực vượt khó cố gắng đạt được thành tích cao trong học tập để ba mẹ vui.

Các tấm gương sáng ngời của những người dù không được may mắn như bao người khác nhưng lại có một nghị lực kiên cường khiến bao người ngưỡng mộ. Điều đó càng khiến những người may mắn như chúng ta nhìn nhận lại chính mình. Khi mà chúng ta được sinh ra với một thân thể lành lạnh và khỏe mạnh, chúng ta được sống trong một môi trường hòa binh với những điều kiện kinh tế đầy đủ. Nhưng thực sự chúng ta đã biết trân trọng những điều may mắn đó hay chưa? Chúng ta đã nỗ lực hết mình, phấn đấu hết mình để đạt được những thành tích tốt nhất hay chưa? Thật đáng xấu hổ nếu chúng ta không biết rằng mình đã may mắn hơn người khác thế nào để từ đó mà cố găng vươn lên. Đừng bao giờ an phận thủ thường, để mình tự mờ nhạt và chìm dần vào trong lãng quên giữa cuộc sống hiện đại này. Như Xuân Diệu đã từng nói: “ Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.” Hãy biết tận dụng những điều kiện của mình để vươn lên tới thành công gây dấu ấn giữa cuộc đời này.

Qua những tấm gương vượt qua số phận, chúng ta chợt cảm thấy mình quá bé nhỏ, tầm thường. Chúng ta học tập ở họ không chỉ ở lòng kiên trì, nhẫn nại, say mê học tập mà còn ở lối sống lạc quan, yêu đời. Lặng lẽ như nụ chồi từ bóng tối vươn ra ánh sáng, họ đã vượt lên chính mình để có một ngày mai tươi sáng hơn.

24 tháng 3 2021

Mik cảm ơn cậu nhiều nhé 🍓

19 tháng 12 2020

- Ví dụ về Hành vi giữ chữ tín:

   + Thủy học giỏi nhất lớp những gia đình Thủy nghèo, Thủy phải đi làm thêm sau mỗi buổi học. Tuy nhiên, Thủy vẫn giữ đúng lời hứa với Hoa kèm cặp cô ấy học sau mỗi buổi đi làm.

   + Đức học kém, nên làm bố mẹ buồn lòng. Sau kì nghỉ hè năm nay, Đức đã hứa với mẹ sang năm sẽ học tốt hơn. Đúng như Đức hứa, cuối kì Đức đạt học sinh tiên tiến của Lớp và được cô khen là lực học ngày càng tiến bộ.

   + Mỗi lần tụ tập đi chơi, Hà Thường đi sớm nhất và đến đúng giờ nhất.

Tham khảo nha        

Tấm gương tiêu biểu là Bác Hồ :Bác có câu nói :'Đấy là chữ "tín".Cần giữ chọn niềm tin với mọi người'

 CHÚC BN HỌC TỐT VÀ LUÔN LÀM THEO GƯƠNG CỦA BÁC HỒ KÍNH YÊU NHÉ !!!vui