K
Khách
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Các câu hỏi dưới đây có thể giống với câu hỏi trên
CM
1 tháng 4 2017
Đáp án A
Mệnh đề câu a: đúng nên phủ định của nó sai.
Mệnh đề câu b: sai nên phủ định của nó đúng.
Mệnh đề câu c: đúng nên phủ định của nó sai.
Mệnh đề câu d: đúng nên phủ định của nó sai.
Vậy có 1 mệnh đề mà phủ định của nó là các mệnh đề đúng.
CM
18 tháng 4 2018
Đáp án B
Các câu a, b, d, e là các mệnh đề. Các câu c, f không là mệnh đề.
Vậy có 2 câu không là mệnh đề.
Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích của thành phố Hà Nội). Là một bộ phận quan trọng của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long-Hà Nội”cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước.
Trước và trong cách mạng Tháng Tám, các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam.
Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19 tháng 10 năm 1946, Chiến khu XI- Tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Ngày 25 tháng 7 năm 1947 trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương ra quyết định địa bàn hoạt động của Chiến khu XI được mở rộng bao gồm: Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Qua Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng của Chiến khu XI đã mang đầy đủ tính chất chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ngày nay. Vì vậy, ngày 19 tháng 10 năm 1946 là ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội theo Quyết định số 1850/QĐ-QP ngày 31 tháng 5 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đây là sự lựa chọn khoa học thể hiện tính khách quan của lịch sử.
Sau khi được thành lập, ngày 19 tháng 12 năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”đã nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, quân và dân Thủ đô nói riêng mãi mãi lưu truyền cuộc chiến đấu 60 ngày đêm, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, vượt chỉ tiêu Trung ương giao, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian thực hiện công việc kháng chiến lâu dài. Suốt chặng đường tám năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang Thủ dô Hà Nội đã kiên trì trụ vững bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và lập được nhiều chiến công vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu biểu, hiệu quả để lại kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các địa phương thuộc tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động của các đơn vị lực lượng vũ trang Mặt trận Hà Nội, nhiều địa phương được xây dựng thành căn cứ kháng chiến và căn cứ của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, hai tỉnh cung cấp nhiều nhất cho Hà Nội lương thực, thực phẩm…
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Phòng không, Không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc, đỉnh cao là cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972, lập nên kỳ tích của thế kỷ XX Hà Nội “Điện Biên Phủ trên không” để trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”.
Thời kỳ cả nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, lực lượng vũ trang Thủ đô luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tấng lớp nhân dân Thủ đô làm thất bại âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại.
65 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội lập nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã hun đúc nên giá trị tiêu biểu, đặc sắc như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô đã không ngại gian khổ hy sinh ra sức phấn đấu xây dựng và vun đắp nên truyền thống Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao.
Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang Thủ đô là vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô hôm nay.
A. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, TRƯỞNG THÀNH CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THỦ ĐÔ HÀ NỘI
I. Các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội ra đời, xung kích đi đầu và làm nòng cốt tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cuối năm 1944, thời cơ Cách mạng Việt Nam xuất hiện và phát triển dần đến chín muồi. Trước tình hình đó, các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô lần lượt ra đời tích cực chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Đội Tự vệ chiến đấu được thành lập trong các đoàn thể cứu quốc, biên chế tổ chức tư theo nguyên tắc mỗi tổ có từ 3 đến 5 người, ba tổ thành một tiểu đội, ba tiểu đội thành một liên đội, ba liên đội họp lại thành một Đoàn.
Tháng 11 năm 1944, Đội thanh niên xung phong tuyên truyền thành Hoàng Diệu ra đời, sau đổi tên là “Đoàn Thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu”.
Cuối năm 1944, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành được thành lập. Đội gồm 21 người có nhiệm vụ tuyên truyền xung phong, bảo vệ cơ sở, bảo vệ những cuộc đấu tranh, đi đầu trong các hoạt động cách mạng.
Ngày 01 tháng 4 năm 1945, Đội Danh dự Việt Minh được tổ chức, với nhiệm vụ trấn áp các tên phản động tay sai. Đội do Thành ủy trực tiếp tổ chức, lãnh đạo.
Tháng 5 năm 1945, Đội Công nhân xung phong được thành lập với nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền ở nội, ngoại thành. Các thành viên ban đầu của Đội lấy tên theo bí danh để giữ bí mật và tỏ rõ chí hướng của mình: Vì Nước, Vì Dân, Vì Giống, Vì Nòi.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu ra đời, với nhiệm vụ xung kích tuyên truyền cho nhân dân, huấn luyện quân sự, chính trị cho Tự vệ Thành, tiêu diệt Việt gian, phản động chống phá cách mạng; khi có tác chiến thì chiến đấu như một đơn vị quân đội thực sự. Đoàn Thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu đã tổ chức diễn thuyết và mít tinh ở nhiều nơi trong nội thành và ngoại thành. Đội Danh dự và Tự vệ chiến đấu đẩy mạnh hoạt động diệt trừ những tên Việt gian tay sai của Nhật. Tất cả các đoàn thể cứu quốc, các đơn vị tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong đều tích cực tìm kiếm vũ khí để tự trang bị và tổ chức huấn luyện quân sự chuẩn bị sẵn sàng cho khởi nghĩa vũ trang cách mạng. Đêm 13 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc đã hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 17 tháng 8, Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội họp nhất trí đánh giá: Thời cơ khởi nghĩa thực sự đã chín muồi và quyết định phương thức và kế hoạch khởi nghĩa.
Sáng ngày 19 tháng 8, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành và Thanh niên cứu quốc, cùng đông đảo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở một số địa phương, sau đó cùng với các lực lượng hợp lực tiến về Nhà Hát Lớn giành chính quyền toàn Thành phố.
Tại Quảng trường Nhà Hát Lớn, cuộc mít tinh hàng chục vạn người diễn ra, đồng chí Nguyễn Huy Khôi, thay mặt ủy ban Quân sự cách mạng, đọc lời hiệu triệu của Việt Minh, hô hào quần chúng vùng lên khởi nghĩa, lập Chính phủ cộng hòa dân chủ Việt Nam, giành độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc.
Đến tối 19 tháng 8, các cơ quan quan trọng của chính quyền Bảo Đại tại Hà Nội đã về tay cách mạng. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội thúc đẩy cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Đây là chiến công lớn đầu tiên hết sức quan trọng của lực lượng vũ trang Thủ đô.
Nhà nước cách mạng ra đời, Hà Nội được gọi là Khu đặc biệt Hà Nội. Bộ Chỉ huy Bộ đội Hà Nội được củng cố và chuyển thành Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan trọng yếu của Trung ương và bảo vệ Thủ đô. Các đơn vị tự vệ rộng rãi ở các cơ quan, nhà máy, khu phố được hình thành trước và trong Cách mạng Tháng Tám được củng cố lại và gọi tên chung là Tự vệ Thành.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, các lực lượng vũ trang Thủ đô cùng với hàng chục vạn nhân dân Hà Nội và các tỉnh lân cận đã tham dự lễ Độc lập đầu tiên, đón chào Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, và nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
II. Lực lượng vũ trang Thủ đô trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)
1. Lực lượng vũ trang Thủ đô cùng nhân dân Thủ đô chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (9/1945 – 12/1946)
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời. Song thực dân Pháp không từ giã xâm lược nước ta, đã câu kết với thế lực phản động trong và ngoài nước, tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ.Cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Bảo vệ, củng cố và giữ vững chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa xây dựng phát triển lực lượng, tích cực tham gia và làm nòng cốt trong các phong trào “Diệt giặc dốt”, diệt giặc đói” và “Diệt giặc ngoại xâm”. Các đơn vị kiên quyết, mưu trí đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, đập tan các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động, phản cách mạng trong và ngoài nước.
Ngày 19 tháng 10 năm 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp đã nhận định “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.
Để chuẩn bị kháng chiến, cả nước được chia thành 12 chiến khu. Khu đặc biệt Hà Nội được đổi tên là Chiến khu XI. Khu ủy, ủy ban bảo vệ, Bộ Chỉ huy chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Thành ủy Hà Nội được kiện toàn và đổi thành Khu ủy XI. Bộ Chỉ huy Chiến khu XI quản lý, chỉ huy cả lực lượng Vệ quốc đoàn và dân quân tự vệ tại Thủ đô.
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, tại trụ sở Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội đồng chí Lê Quảng Ba, nguyên Khu trưởng, đã tiến hành lễ bàn giao nhiệm vụ cho đồng chí Vương Thừa Vũ. Chiến khu XI ra đời đáp ứng yêu cầu thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô.
Bộ Chỉ huy Chiến khu XI được kiện toàn. Lực lượng chủ lực bao gồm 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo cao xạ ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo, với tổng quân số là 2.516 người, được trang bị 1.516 súng trường, 3 trung liên, 1 đại liên, 1 ba-dô-ka 60 ly, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng cơ-rếp, 7 khẩu pháo cao xạ, 1 khẩu sơn pháo 75 ly, 1 khẩu pháo 25 ly, 2 khẩu cối 60 ly. Lực lượng địa phương gần 10.000 người, với Đội tự vệ chiến đấu làm nòng cốt, vũ khí có khoảng 500 - 600 súng trường, 2 trung liên, một số súng ngắn, một số mìn, lựu đạn và giáo mác. Chiến khu tổ chức 13 đội quyết tử đánh xe tăng và 36 tổ du kích đặc biệt.
Để bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu với địch, nội thành Hà Nội được chia thành 3 liên khu. Liên khu 1 Đông Bắc thành phố, tương đương với quận Hoàn Kiếm ngày nay. Liên khu 2 ở phía Nam, bao gồm toàn bộ quận Hai Bà Trưng ngày nay. Liên khu 3 ở phía Tây, bao gồm quận Đống Đa, một phần quận Ba Đình ngày nay. Để tăng cường lực lượng cho Thủ đô chiến đấu, Bộ Tổng chỉ huy cũng quyết định bổ sung 2 đại đội của Tiểu đoàn 56, Trung đoàn 13 Hà Đông cho Hà Nội.
Với ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân Thủ đô chủ động mọi mặt, sẵn sàng cùng quân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Khi thực dân Pháp ra “Tối hậu thư”. Chiều 19 tháng 12, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI trả lời bằng Mệnh lệnh tấn công. Quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu toàn quốc kháng chiến.
2. Chiến đấu giam chân địch trong thành phố với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” (19/12/1946 – 19/2/1947)
Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lực lượng vũ trang Thủ đô đồng loạt tiến công 21 vị trí của quân Pháp đóng quân và hoàn toàn làm chủ tình thế, dựa vào công sự, chiến lũy và thế liên hoàn của các căn nhà, dãy phố kiên cường chiến đấu gây cho địch nhiều tổn thất. Các chiến sỹ cảm tử quân dũng cảm ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng, thiết giáp của địch. Trên toàn thành phố, các cuộc tập kích địch liên tiếp nổ ra, ngăn chặn bước tiến của địch trên các đường phố.
Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng theo đề nghị của ủy ban kháng chiến Liên khu 1, Khu ủy và Bộ Chỉ huy Chiến khu XI cho phép thành lập Trung đoàn Liên khu 1 để tập trung chỉ huy tác chiến. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, lễ thành lập Trung đoàn Liên khu 1 được tổ chức trọng thể. Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947, tại Chúc Sơn (Chương Mỹ), quyết định tặng Trung đoàn Liên khu 1 của Hà Nội danh hiệu Trung đoàn Thủ đô.
Cùng với việc thành lập Trung đoàn Thủ đô, Bộ Tổng chỉ huy tăng cường cho mặt trận Hà Nội Tiểu đoàn 45 (Trung đoàn 9 Sơn Tây) và Tiểu đoàn 64 (Trung đoàn 13 Hà Đông). Tăng sức mạnh chiến đấu, ngăn chặn địch đánh ra ngoại thành và bảo vệ Liên khu I. Cuộc chiến đấu giam chân địch trong thành phố của quân dân Thủ đô được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan chỉ đạo sâu sát từng ngày. Nhân dịp Tết Đinh Hợi (1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Người viết:
“...Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại. Cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em, nay các em gan góc tiếp thu cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau...”
Để xứng đáng với niềm tin yêu của Người, đêm 30 Tết, các chiến sĩ Hà Nội đã mở đợt tấn công địch ở nhiều nơi và cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp Rùa, thể hiện tinh thần kiên cường bất khuất và quyết tâm chiến đấu với quân thù, giữ vững các vị trí trọng yếu, ngăn chặn địch tiến công, gây cho địch tổn thất nặng nề. Tại Nhà Xô Va, ta diệt và làm bị thương 40 tên địch, đốt cháy 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp. Trận Đồng Xuân, ta tiêu diệt gần 200 tên địch. Đứng trước tình hình khó khăn, để bảo toàn lực lượng, ngày 15 tháng 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Trung đoàn Thủ đô bí mật rút quân bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Bác Hồ khen ngợi: "Các chú giam chân địch một tháng là thắng lợi. Đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi".
Do tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, ý chí quyết tâm cao, với sự giúp đỡ của nhân dân và du kích Tứ Tổng (nay là phường Tứ Liên, quân Tây Hồ), Trung đoàn Thủ đô với đầy đủ vũ khí phương tiện đã rút khỏi Thành phố, vượt qua sông Hồng, lên Chiến khu bảo đảm bí mật, an toàn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư khen:
“…Các chiến sĩ đã chiến đấu 2 tháng ròng rã để giữ vững ngọn cờ nước Việt giữa thủ đô Hà Nội. Các chiến sĩ đã nêu cao tinh thần oanh liệt của dân Việt và thanh danh rực rỡ của Quân đội quốc gia Việt Nam.
Các chiến sĩ lại mở được con đường máu vượt qua vòng vây quân địch để thực hiện chỉ thị bảo toàn chủ lực. Các chiến sĩ sẽ tiếp tục chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta sẽ chiến đấu 10 năm hay lâu hơn nữa nếu cần...”
Đợt chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến của quân dân Hà Nội đã kết thúc thắng lợi, góp phần rất quan trọng chặn đánh quân địch, bảo vệ cơ quan Trung ương, Chính phủ, các đoàn thể và các cơ quan của thành phố rút lên Chiến khu an toàn, đã viết nên bản hùng ca bất hủ.
3. Phát triển và đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đến thắng lợi, tiếp quản giải phóng Thủ đô (1947 - 1954)
Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu 1, lực lượng chủ lực của Chiến khu XI bao gồm Tiểu đoàn 145, 523 và 77. Bộ Chỉ huy Chiến khu đã quyết định sát nhập các đơn vị thành một Trung đoàn 80. Tiếp tục chiến đấu ngăn chặn và tổ chức các trận chiến đấu phản kích chiếm lại mục tiêu, gây tổn thất lớn cho địch: Trận phòng ngự ở Cự Đà (Hà Đông), chỉ có Ban Chỉ huy trung đội đã buộc 200 quân Pháp có xe tăng và cơ giới phải rút quân sau một ngày tiến công liên tục. Đây là một trận đánh tiêu biểu cho ý chí kiên cường bất khuất, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không chịu đầu hàng giặc của các cán bộ chiến sĩ Mặt trận Hà Nội. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Trung ương Đảng, đã ghi nhận: “Trận Cự Đà thật đáng nêu gương cho toàn quốc noi theo”. Trong trận tiến công thị xã Hà Đông, ta diệt 88 tên địch, phá hủy 1 khẩu 12,7 mm và 1 xe Jép.
Ngày 25 tháng 7 năm 1947, theo quyết định của Trung ương, địa bàn Chiến khu XI được mở rộng bao gồm Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Để thúc đẩy việc gây dựng cơ sở ở Hà Nội, tháng 9 năm 1947, Khu ủy XI quyết định lập lại Thành uỷ Hà Nội, đến tháng 11 năm 1947 đồng chí Lê Quang Đạo được cử làm Bí thư thay đồng chí Đào Văn An. Khu ủy cũngquyết định sát nhập 4 huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Oai và Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội để mở rộng địa bàn hoạt động của lực lượng vũ trang Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội đã chia địa bàn Hà Nội, gồm cả nội thành, 3 quận ngoại thành và 4 huyện mới sát nhập thành hai Liên quận huyện 1 và 2. Trung đoàn 80 đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 48.
Ngày 20 tháng 9 năm 1947, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI đã quyết định thành lập Thành đội bộ dân quân Hà Nội với nhiệm vụ chăm lo phát triển lực lượng dân quân du kích và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích trong thành phố. Thành đội lúc đầu đứng chân trên đất Cần Kiệm (huyện Thạch Thất). Sau đó chuyển đến các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức.
Ngày 25 tháng 1 năm 1948, thực hiện Sắc lệnh số 120.SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng tổ chức lại các khu trong cả nước. Tại Bắc Bộ, Chiến khu I và XII được nhập lại thành Liên khu I, Chiến khu XI được hợp nhất với các Chiến khu II, III thành Liên khu III, Chiến khu IV đổi là Liên khu IV bao gồm cả Bình- Trị- Thiên. Bộ Tư lệnh Liên khu III trực tiếp phụ trách về mặt quân sự với các mặt trận Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây.
Ngày 12 tháng 5 năm 1948, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định 180.TCH, Trung đoàn 48 được mang danh hiệu Trung đoàn Thăng Long. Đây là một vinh dự đặc biệt đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48.
Tháng 10 năm 1948, Trung ương Đảng quyết định tách Hà Nội ra khỏi Liên tỉnh Lưỡng Hà, thành Khu đặc biệt do Liên khu uỷ III phụ trách. Tháng 11 năm 1948, Thành uỷ Hà Nội được lập lại. Từ ngày 23 tháng 12 năm 1948 đến tháng 6 năm 1949, ta phát động chiến dịch tổng phá tề. Trong chiến dịch này, ta phá được 23 ban tề, bắt 83 nhân viên tề ra vùng tự do, diệt trừ được một số tên Việt gian.
Ngày 11 tháng 5 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đặt ủy ban kháng chiến Hà Nội trực thuộc Chính phủ. Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo Đặc khu Hà Nội. Đồng chí Trần Quốc Hoàn được chỉ định làm Bí thư Đặc khu ủy Hà Nội.
Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Mặt trận Hà Nội. Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội không chỉ trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Thủ đô mà còn có trách nhiệm phối hợp tổ chức cho lực lượng vũ trang khác hoạt động trên địa bàn Hà Nội như Trung đoàn Thăng Long, các đơn vị biệt động của Liên khu III...
Thành uỷ và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội thường xuyên phát động các đợt hoạt động, phối hợp chặt chẽ với chiến trường toàn quốc. Hà Nội vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến trong cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng của dân tộc. Các trận đánh của lực lượng vũ trang Thủ đô gây tổn thất lớn cho địch, khiến cho trung tâm bộ máy điều hành chiến tranh của thực dân Pháp trên chiến trường Đông Dương khiếp sợ.
Từ cuối năm 1949 đến hết mùa Xuân năm 1950, quân và dân Hà Nội đã đánh hơn 200 trận và tổ chức hàng chục cuộc đấu tranh chính trị. Ta dùng các hình thức tập kích, phục kích, pháo kích, gài mìn và đánh địch bằng nhiều loại vũ khí, đã diệt hàng trăm tên, bắt sống 34 tên và vận động một số lính ngụy ra với kháng chiến. Trận tập kích sân bay Bạch Mai, Tiểu đoàn 108 đã phá huỷ 25 máy bay, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí và một số trang bị của địch. Tháng 3 năm 1954 đánh sân bay Gia Lâm phá hủy 18 máy bay, góp phần làm gián đoạn cầu hàng không tiếp tế của địch cho Điện Biên Phủ.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết. Thực dân Pháp phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết của quân đội Pháp 80 ngày trước khi bàn giao cho ta.
Tiếp quản thành phố Hà Nội, là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, vô cùng phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục các đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô. Ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Hùng (Phú Thọ) nói chuyện với cán bộ Đại đoàn 308 trên đường tiến về tiếp quản Thủ đô, Người căn dặn : “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước…. Tám chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội, vì thế các chú được Trung ương Đảng và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là nhận được một vinh dự rất lớn…”.
Được sự lãnh đạo sát sao của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác chuẩn bị tiếp quản Hà Nội về mọi mặt đã được triển khai nhanh chóng. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, đại quân từ năm cửa ô tiến vào Thủ đô Hà Nội. Mỗi cánh quân đều có cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hà Nội làm nhiệm vụ dẫn đường, các tuyến đường có đoàn quân đi qua, tự vệ cùng các đoàn thể cách mạng tổ chức giữ gìn an ninh trật tự. Sau một thời gian đấu trí, đấu lực quyết liệt với địch, ta đã tiếp quản tuyệt đối an toàn, nhanh gọn toàn bộ thành phố Hà Nội: bao gồm các căn cứ quân sự, 129 công sở, xí nghiệp, bệnh viện, trường học được nguyên vẹn. Lực lượng vũ trang Thủ đô đã góp phần quan trọng trong quá trình tiếp quản.
III. Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Song, đế quốc Mỹ, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng đã thay chân thực dân Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới.
Quán triệt, thực hiện đường lối của Đảng, quân dân Thủ đô Hà Nội, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Sau ngày tiếp quản Thủ đô đến năm 1960, là thời kỳ lực lượng vũ trang Thủ đô tập trung củng cố lực lượng, tham gia ổn định chính trị, trật tự xã hội, khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh.
Những thành tích bước đầu của các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi,Người viết: “Trước ngày các chú vâng lệnh về Thủ đô, Bác đã dặn dò các chú điều gì nên làm, điều gì nên tránh. Khi vào tiếp quản Thủ đô các chú đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ như lời Bác dặn: cùng anh em công an và nhân dân giữ gìn trật tự trị an, giữ đúng kỷ luật, bảo vệ tính mạng và tài sản của đồng bào và ngoại kiều… Bác vui lòng khen ngợi các chú…”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1996, trang 381).
Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, lực lượng vũ trang Thủ đô đã nhanh chóng củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng theo Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng “Tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại”. Thành đội Hà Nội cùng với hệ thống các khu đội, huyện đội, xã đội đã ra đời thay thế Mặt trận Hà Nội và hệ thống quân sự địa phương cũ trong chiến tranh. Lực lượng vũ trang Thủ đô đã góp phần tích cực cùng các lực lượng khác giữ vững ổn định chính trị ở Thủ đô, sẵn sàng chiến đấu, chi viện chiến trường, cùng nhân dân thành phố khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế văn hóa, tạo ra tiềm lực vật chất, chính trị và tinh thần, làm cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ quân sự, sẵn sàng đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, ngày 1 tháng 9 năm 1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 102/QĐ/QP thành lập Bộ Tư lệnh Thủ đô để thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Hà Nội.
Bộ Tư lệnh Thủ đô nhanh chóng phát triển lực lượng, xây dựng thế trận, sẵn sàng đánh trả máy bay địch, tích cực tham mưu với Thành ủy về công tác phòng không nhân dân. Trong vai trò thường trực Hội đồng phòng không nhân dân thành phố, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã chỉ đạo các ngành, các cấp tích cực triển khai chuẩn bị có hiệu quả các mặt công tác phòng không nhân dân, sẵn sàng đối phó với các hành động đánh phá của địch.
Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nước: “... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.” (Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 12 trang 107-108. NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội-1996).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ 17 tháng 7 đến 17 tháng 8 năm 1966, miền Bắc đã bắn rơi 138 máy bay địch. Ngày 14 tháng 12 năm 1966, bộ đội không quân, cao xạ, tên lửa, dân quân, tự vệ Hà Nội đã bắn rơi 8 máy bay địch, trong đó có chiếc thứ 1.600 bị bắn rơi trên miền Bắc.
Với những thành tích nổi bật của quân dân Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen“... Quân và dân Hà Nội càng đánh càng giỏi, đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1600 trên miền Bắc. Hà Nội vừa chiến đấu khá, vừa sản xuất khá, vừa giữ gìn trật tự trị an tốt... Bác tặng Thủ đô lá cờ: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ngày 19 tháng 5 năm 1967, quân và dân toàn thành phố đã bắn rơi 10 máy bay, bắt sống giặc lái, làm thất bại thủ đoạn dùng bom “Tinh khôn” để phá hủy nhà máy điện, giữ vững sản xuất và trật tự trị an, giao thông công cộng. Đây là chiến công lớn của quân và dân Thủ đô, món quà mừng sinh nhật lần thứ 77 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện quân tăng cường cho chiến trường miền Nam với khối lượng lớn và chất lượng cao, tháng 8 năm 1967 Bộ Tư lệnh Thủ đô quyết định thành lập Đoàn 1867, sau đó chuyển thành Trung đoàn 59 với biên chế khung hoàn thiện hơn.
Do thất bại trên các chiến trường, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn - xơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị thương lượng với chính phủ ta. Trên thế thắng và với thái độ thiện chí, phái đoàn ta đã đến Pa-ri đàm phán với phía Mỹ.
Sau Tết Mậu Thân, công tác động viên, tuyển quân trở thành nhiệm vụ lớn nhất trong công tác quân sự địa phương Toàn thành phố đã xây dựng được 107 đội dự bị động viên. Từ tháng 8 năm 1967, trước yêu cầu khẩn trương về lực lượng của tiền tuyến lớn, Bộ Tư lệnh Thủ đô còn được giao nhiệm vụ trực tiếp xây dựng và huấn luyện quân tăng cường cho miền Nam. Đầu tháng 8 năm 1968, 5 tiểu đoàn quân tăng cường lần lượt lên đường, kịp thời bổ sung lực lượng chiến đấu cho chiến trường miền Nam. Trong 6 tháng cuối năm, Hà Nội tiếp tục huấn luyện 7 tiểu đoàn.
Để cứu vãn nguy cơ phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chính quyền Nich- xơn chủ trương “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đế quốc Mỹ đã mở chiến dịch “Lai - nơ - bếch- cơ I”, đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trong hơn 6 tháng quân và dân Hà Nội đã đánh 28 trận vừa và nhỏ, bắn rơi 63 máy bay địch, bắt nhiều giặc lái. Riêng dân quân, tự vệ bắn rơi 5 máy bay.
Tháng 12 năm 1972, tại Hội nghị Pa-ri, Tổng thống Ních-xơn lật lọng, cho ngừng đàm phán ở Pa-ri từ ngày 13 tháng 12 năm 1972. Ngày 14 tháng 12, Ních-xơn phê chuẩn kế hoạch của cuộc tập kích chiến lược mang mật danh “Lai-nơ-bếch-cơ II”, đánh phá ồ ạt bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng.
Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, trên địa bàn Hà Nội, đế quốc Mỹ đã huy động tối đa sức mạnh không lực Hoa Kỳ đánh phá hủy diệt Hà Nội. chúng sử dụng 444 lần chiếc B52, hơn 1000 lần chiếc máy bay chiến thuật, trong đó có hàng trăm lần chiếc F111, ném khoảng 10.000 tấn bom đạn xuống 4 thị trấn, 39 đoạn phố, 67 xã và 4 khu vực đông dân.
Không khuất phục, quân dân Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Phòng không, Không quân quốc gia kiên cường, dũng cảm chiến đấu bắn rơi 32 máy bay, trong đó có 25 chiếc máy bay B52, 2 F111 và 5 máy bay chiến thuật. Chiến thắng của quân dân Hà Nội đã làm nên một “Điện Biên Phủ trên không”, tiêu tan sức mạnh không lực Hoa Kỳ. Hà Nội không trở về “thời kỳ đồ đá” mà trở thành “Thủ đô phẩm giá của con người”, buộc đế quốc Mỹ ký kết Hiệp định Pa-ri “Về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu buộc phải rút hết khỏi miền Nam.
Đáp ứng yêu cầu của chiến trường, năm 1973, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tổ chức 3 đợt động viên tuyển quân với 4.563 thanh niên nhập ngũ. Trên 4.000 chiến sĩ mới được biên chế thành 7 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 59, làm nhiệm vụ xây dựng quân tăng cường chi viện chiến trường.
Cùng với nhiệm vụ chi viện miền Nam, quân và dân Thủ đô còn hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế. Trong quý 4 năm 1973, quân dân Thủ đô đã đón tiếp, đưa tiễn 1597 cán bộ, chiến sĩ cách mạng Lào, bốc xếp giúp bạn 1.386 tấn lương thực hàng hóa trên 230 chuyến máy bay vận tải quân sự, đáp ứng kịp thời việc chuẩn bị lực lượng và hàng hóa vào hai thành phố Viêng Chăn và Luông Pra Băng theo hiệp định lập lại hòa bình, hòa hợp dân tộc ở Lào.
Trước tình hình chiến trường miền Nam có những chuyển biến ngày càng có lợi cho ta, ngày 30 tháng 9 năm 1974, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976.
Trong năm 1974, đầu năm 1975 các tiểu đoàn quân tăng cường của Hà Nội lần lượt lên đường bổ sung cho các chiến trường, chi viện cho công cuộc giải phóng miền Nam 8.212 thanh niên, trong đó có trên 1.300 cán bộ chuyên môn, kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, 170 y sĩ, bác sĩ được điều động vào quân đội, phục vụ chiến trường.
Trong suốt thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô đã bắn rơi 358 máy bay các loại, trong đó có nhiều máy bay B52, F111 và nhiều loại máy bay hiện đại khác. Riêng dân quân tự vệ Thủ đô đã bắn rơi 8 máy bay địch. Bằng hành động chiến đấu mưu trí, dũng cảm, lưới lửa tầm thấp của lực lượng vũ trang Thủ đô góp phần hình thành thế trận phòng không nhân dân hiệu quả, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các lực lượng khác bắn rơi nhiều máy bay địch, hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô.
Từ năm 1965 đến 1975, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tổ chức 29 đợt động viên tuyển quân, với hơn 89.000 thanh niên lên đường chiến đấu. Bộ Tư lệnh Thủ đô đã trực tiếp tổ chức huấn luyện, đưa 42 tiểu đoàn quân tăng cường cho chiến trường miền Nam, Nhiều đơn vị, nhiều cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường đã lập công xuất sắc, trong đó có 14 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 1.781 người được tặng thưởng danh hiệu dũng sĩ, được tặng 14.846 huân chương các loại. Hơn 11.000 đồng chí đã hy sinh anh dũng trên các chiến trường.
Tháng 4 năm 1965, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ra Quyết định hợp nhất tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Hà Tây. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang Hà Tây thuộc Quân khu Hữu Ngạn. Tuy nhiên, do vị trí địa lý và bề dày lịch sử văn hóa truyền thống, nên lực lượng vũ trang Hà Tây luôn gắn bó, quan hệ mật thiết với lực lượng vũ trang Hà Nội nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung. Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang Hà Tây tạo nên “Vòng cung lửa”ngăn chặn không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, bảo vệ các mục tiêu trọng yếu, bắn rơi 83 máy bay, bắt sống nhiều phi công Mỹ. Trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, lực lượng vũ trang Hà Tây đã bắn rơi hàng chục máy bay Mỹ, trong đó có 01 máy bay B52 và 01 máy bay F111.
Cùng với hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, quân dân Hà Tây hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Hà Tây là quê hương của phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, quê hương“Chiếc gậy trường sơn” biểu tượng của phong trào sẵn sàng tòng quân giết giặc của thanh niên miền Bắc. Từ năm 1965 đến năm 1975, Hà Tây thực hiện 32 đợt tuyển quân, với tổng số 174.000 người. Trung đoàn 12 của tỉnh đã đã huấn luyện 77 tiểu đoàn tăng cường chi viện cho chiến trường miền Nam.
IV. Lực lượng vũ trang thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1976 – 2011)
1. Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong những năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976 – 1986)
Những năm 1976 đến năm 1986, lực lượng vũ trang Thủ đô vượt qua mọi khó khăn, từng bước trưởng thành, cùng các tầng lớp nhân dân bảo vệ, kiến thiết xây dựng Thủ đô xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
Từ năm 1976 đến tháng 2 năm 1979 lực lượng vũ trang Thủ đô vừa củng cố xây dựng lực lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô trong điều kiện, hoàn cảnh mới, vừa cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô khôi phục phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh và huấn luyện nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng thế trận bảo vệ Thủ đô, rà phá bom, mìn, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Tháng 2 năm 1979 đáp ứng yêu cầu tăng cường lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới, 4 huyện ngoại thành Hà Nội (Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh trì) đã kịp thời thành lập tiểu đoàn địa phương, tăng cường lực lượng cho các mặt trận. Trong đó Tiểu đoàn địa phương huyện Đông Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ Chính trị ra Quyết định số 35/QĐ-TW, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 28/LCT thành lập Quân khu Thủ đô Hà Nội (trên cơ sở Bộ Tư lệnh Thủ đô). Đồng chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu. Đồng chí Thiếu tướng Lư Giang làm Phó Tư lệnh.
Đặc trưng nổi bật nhất của Quân khu Thủ đô là đảm nhiệm trên hướng chủ yếu của quốc gia trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng đó là thành phố Hà Nội, nhưng phạm vi phòng thủ và tác chiến được mở rộng ra một số địa phương xung quanh thuộc địa bàn quân khu bạn.
Bộ Tư lệnh Quân khu, các cơ quan Bộ Tư lệnh, các nhà trường và các đơn vị chủ lực nhanh chóng được tổ chức xây dựng đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thủ đô trong mọi tình huống.
Trong thời gian ngắn, các tầng lớp nhân dân Thủ đô hăng hái tham gia xây dựng công trình chiến đấu bảo vệ Thủ đô, góp hàng chục vạn công, đào đắp hàng chục vạn mét khối đất, đá, vượt định mức bình quân mỗi lao động 32,4%, vượt khối lượng đào đắp hơn 67.000 m3, tiết kiệm gần 17.000 công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đồng thời, lực lượng vũ trang Thủ đô còn hoàn thành nhiệm vụ chi viện lực lượng làm đường cho Quân khu II trên mặt trận Hà Tuyên. Năm 1986, Quân khu Thủ đô cải tạo mặt đường Khuổi Mại – Phin Sang dài 7 km và mở mới mạng đường ngang nối từ Hang Hòn đi Khau Dù dài 12 km, hoàn thành trước thời hạn 34 ngày.
Kết quả xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận và thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn 1975 – 1986 đã góp phần quan trọng cùng các tầng lớp nhân dân Hà Nội bảo vệ, xây dựng, kiến thiết Thủ đô ngày càng giàu đẹp và làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của thế lực thù địch.
2. Lực lượng vũ trang thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1987 – 2000)
Trong giai đoạn 1987 – 2000, Thủ đô Hà Nội cùng cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những khó khăn, thử thách. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành chiến lược“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá quyết liệt phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam một lần nữa phải đối mặt với những khó khăn hết sức gay gắt. Nghị quyết Đại hội VI xác định: “Trong giai đoạn mới phải xây dựng quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao…Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội VI, lực lượng vũ trang Thủ đô kiên định, vững vàng, đoàn kết, sáng tạo vượt mọi khó khăn, góp phần làm thất bại các âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới đất nước và Thủ đô giành được nhiều thắng lợi.
Từ năm 1996 đến năm 2000, lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội tập trung xây dựng theo hướng cách mạng chính qui, tinh nhuệ từng bước hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội, tạo tiền đề cho phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Ngày 18 tháng 8 năm 1999, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 1285/QĐ-QP chuyển giao Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây từ Quân khu III về trực thuộc Quân khu Thủ đô; ngày 20 tháng 8 năm 1999, Bộ Quốc phòng tiếp tục ra Quyết định số 1307/QĐ-QP thành lập Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô.
Đảng ủy Quân khu Thủ đô tập trung lãnh đạo ổn định tổ chức biên chế, kiện toàn tổ chức chỉ huy, tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, từng bước đưa các hoạt động của cơ quan, đơn vị vào nền nếp, xác định rõ nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội và bổ sung nhiệm vụ Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây.
3. Nâng cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng nền quốc phòng địa phương vững mạnh, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (2001 – 2007)
Bước sang thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão, tác động vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển là nhu cầu và là xu hướng chung của mọi quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng, chủ nghĩa đế quốc dùng mọi thủ đoạn hòng biến quá trình toàn cầu hóa thành quá trình tư bản hóa toàn cầu. Chúng thực thi các chính sách nhằm áp đặt giá trị tư bản đối với mọi quốc gia dân tộc, lôi kéo nhiều nước tham gia vào các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Những hành động đi ngược xu thế và lợi ích chung đã gây nên các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo liên tục diễn ra. Nạn khủng bố đã và đang là mối đe dọa, thách thức lớn đối với tất cả các nước.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: chính trị-kinh tế-văn hóa, xã hội ổn định và phát triển, vị thế Việt Nam ngày càng tăng trên trường quốc tế. Cách mạng Việt Nam có thế và lực mới, tuy nhiên, còn đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn.
Quán triệt quan điểm, đường lối, phướng hướng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình hình mới, lực lượng vũ trang Thủ đô tiếp tục xây dựng lực lượng bộ đội thường trực cách mạng “Chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ “Vững mạnh, rộng khắp”, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh; nâng cao kiến thức toàn diện; trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ địa bàn Quân khu; xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, tỉnh, thành phố vững chắc; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, chất lượng tốt cho các nhiệm vụ, góp phần đánh bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Đảng bộ Quân khu tập trung xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng; xây dựng các cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đạt độ vững chắc; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ số lượng, chất lượng cao. Nhiều nội dung công tác quốc phòng, quân sự địa phương đi đầu toàn quốc và khu vực: Đào tạo thí điểm Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn với 9 khoá cho 1.006 đồng chí; đào tạo 766 sỹ quan dự bị; 183 giáo viên dạy môn giáo dục quốc phòng và xây dựng công trình phòng thủ bằng ngân sách địa phương. Quy hoạch thế trận quân sự khu vực tỉnh....
Kết quả thực hiện nhiệm vụ trên các mặt công tác của lực lượng vũ trang Thủ đô góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội.
4. Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội đổi mới toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô trong thời kỳ mới (2008-2011)
Đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15 quyết định mở rộng địa giới hành chính Hà Nội. Theo đó, địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội gồm toàn bộ diện tích tự nhiên của thành phố Hà Nội, diện tích tự nhiên của tỉnh Hà Tây, diện tích tự nhiên của huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và diện tích tự nhiên của 4 xã (xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung) thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, Thủ đô Hà Nội mới có diện tích tự nhiên 3.344,47 ki lô mét vuông; dân số: 6.232.940 người (Hiện nay dân số Hà Nội hơn 6,4 triệu người); Đơn vị hành chính cấp quận, huyện gồm 29 đơn vị: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Từ Liêm, Hoàng Mai, Thanh Trì, Long Biên, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Hà Đông, Sơn Tây, Thường Tín, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Ứng Hòa, Thanh Oai, Chương Mỹ, Quốc Oai, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thạch Thất, Ba Vì, Mê Linh.
Trong tiến trình thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội khóa XII ngày 16 tháng 7 năm 2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Lệnh số 16/2008/L-CTN về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Ngày 25 tháng 7 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 2192/QĐ-BQP, 2194/QĐ-BQP hợp nhất Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây, Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô Hà Nội vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Quyết định số vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quyết định 2196/QĐ-QP sát nhập Ban Chỉ huy quân sự huyện Mê Linh thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc/Quân khu II vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, chịu sự quản lý, chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội có chức năng tham mưu cho Đảng bộ và chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương; tổ chức thực hiện xây dựng quản lý chỉ huy các đơn vị lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền.
Thực hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, ngày 28 tháng 7 năm 2008, Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô bàn giao cho Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Đồng chí Đại tá Phí Quốc Tuấn, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây, được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Đại tá Phùng Đình Thảo, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Thủ đô, được bổ nhiệm chức vụ Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và thăng quân hàm Thiếu tướng.
Ngày 30 tháng 7 năm 2008, tại Hội trường Quân khu Thủ đô, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng công bố Lệnh số 16 ngày 16/7/2008 của Chủ tịch nước về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và trân trọng trao Quân kỳ Quyết thắng cho Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Ngày 26 tháng 8 năm 2008, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội tổ chức lễ công bố thành lập Đảng bộ Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội trực thuộc Thành ủy Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội gồm 15 đồng chí; đồng chí Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy; Thiếu tướng Phùng Đình Thảo, Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Đại tá Phí Quốc Tuấn, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, được chỉ định làm Phó Bí thư Đảng ủy.
Nhận thức sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của mình; với tinh thần đổi mới, sáng tạo và quyết tâm cao, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc Lệnh số 16/2008/L-CTN của Chủ tịch nước và các chủ trương, Quyết định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu, của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội. Nhanh chóng ổn định tổ chức biên chế các cơ quan, đơn vị theo hướng tăng cường cho cơ sở, bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tích cực, chủ động tham mưu với Thành ủy, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng, quân sự địa phương sau khi thành phố được mở rộng địa giới hành chính.
LLVT Thủ đô luôn kiên định, vững vàng, duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình; phối hợp với công an Thành phố và các lực lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng trên địa bàn Thủ đô. Đặc biệt là các hoạt động Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội (năm 2010); Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2010- 2015; Bầu cử Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016; các Hội nghị Quốc tế do Việt Nam chủ trì, đăng cai; kịp thời tham mưu, đề xuất biện pháp xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp
cậu chả lời hơi dài nhưng có bố cục nên mình cho cậu 1 tích