Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh TẾ Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bạch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẫm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.
“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:
… “Tiếng thơm đồn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt
Nhớ người xưa chừ lệ chan…”
Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh
Hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.
“Giương buồm giong gió chơi vơi”.
“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…
Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:
“Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết”.
Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.
“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.
“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”
Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:
“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,
Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”
“Bát ngát sóng kình muôn dặm”
Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang –Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:
“ Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Bpờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” ( “Cửa Biển Bạch Đằng”).
Trương Hán Siêu miêu tả dòn sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:
“ Buồn vì cảnh thảm
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.
Một tâm trạng: “ buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “ đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”
“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”
Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:
“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,
Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”.
Kết bài “Phú sông Bạch Đằng” với “Sông Bạch Đằng)
- Gần gũi:
- Ca ngợi chiến thắng trên con sông huyền thoại Bạch Đằng thời Trùng Hưng
- Cùng ngợi ca thiên nhiên, con người làm nên chiến thắng
- Thơ viết bằng chữ Hán
Khác biệt
Thể loại: bài “Sông Bạch Đằng” được viết theo thể Đường luật
“ Bạch Đằng giang phú” viết theo thể phú cổ thể
Phân tích bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu:
Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trang mải miết.
Sớm gõ chừ Nguyên Tương
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt
Cửu Giang,Ngũ Hồ,
Tam Ngô,Bách việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.
Mà tráng trì bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa gòn chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời : một sắc,
Phong cảnh : ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đướng lặng giừo lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão :
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy le chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng :
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị khánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa,thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy :
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kỳ phất phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa :
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chuốc dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng :
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối.
Khác nào như khi xưa :
Trận Xích Bích,quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì,giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chẳng chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên :
Từ khi có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc diện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân : có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : có quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không còn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng :
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng :
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiếm,cốt mình đức cao”.
Gợi ý làm bài
Giá trị lớn nhất của bài phú này là : với lòng tự hào dân tộc,bằng một hơi văn liền mạch,bút pháp bi hùng,tác phẩm gợi lên trong lòng người đọc cảm hứng hào hùng về những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng,cảm hứng bi tráng thuộc hào khí Đông A.
1.Tác giả
- Trương Hán Siêu ( ?-1354 ) tự là Thăng Phủ ,hiệu Đôn Tẩu , người xã phúc thành , huyện Yên Ninh ( nay thuộc thị xã Ninh Bình ). Ông có tài và học giỏi , từng là môn khách của Trần Hưng Đạo , sau làm quan từ triều Trần Anh Tông đến triều Trần Dụ Tông , lúc chết được thăng tước Thái Bảo , Thái phó và được thờ ở Văn Miếu ( Thăng Long ).
- Tính tình cương trực , học vấn uyên thâm , sinh thời được các vua Trần tin cậy , nhân dân kính trọng.
- Tác phẩm: còn 4 bài thơ và 3 bài văn , trong đó có Bặch Đằng giang phú nổi tiếng nhất.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bạch Đằng là một nhánh sông Kinh Thầy , nơi ghi dấu những chiến công hào hùng và trở thành thi tứ cho nhiều tác phẩm văn học.
- Ước mơ đoán viết vào khoảng 50 năm sau cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông thắng lợi.
3. Thể loại:
- Viết theo thể phú , nguyên tác bằng chữ Hán.
- Phú là thể hiện văn vần , dùng để tả cảnh vật , phong tục , tập quán , tính tình .Hai loại phú phổ biến là phú cổ thể và phú Đường Luật .Phú cổ thể vốn có từ trước đời nhà Đường , có vần , không đối , như bài ca dài , hoặc bài văn xuôi có vần , vì thế nên còn gọi là phú lưu thuỷ ( nước chẩy ).Còn Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường , có vần , đối , theo luật bằng trắc khá chặt chẽ .Bài phú của Trương Hán Siêu viết theo lối cổ thể .Bản dịch theo nguyên điệu , trừ hai bài ca cuối cùng chuyển sang thể lục bát .
4. Câu tứ:
- Dùng hình thức đối đáp giữa khách và bô lão. Khách ở đây chính là tác giả.
5.Phân tích:
5.1 Giới thiệu người và hoàn cảnh:
- Người:
+ Khách : là nhân vật do tác giả sáng tạo nên , nhưng ở đây cũng chính là tác giả .Trong thể phú , thường có nhân vật khách để kể chuyện cho hấp dẫn.
+ Khách đến những địa danh nổi tiếng
Tính ước lệ -> người có lòng yêu thiên nhiên , thú du ngoạn , tâm hồn khoáng đạt , chí khí lớn lao , mang tráng chí bốn phương .
Bặch Đằng ->tả thực .Không chỉ có thú tiêu dao mà còn là người yêu lịch sủ dân tộc ,học ltheo Tử Trường xưa.
Giọng văn thanh thản , phơi phới.
=>Hình tượng nhân vật khách : tự khẳng định mình là một hồn thơ,một khách hải hồ đồng thời là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.
- Cảnh:
+ Sông Bặch Đằng hùng vĩ , hoành tráng:
Bát ngát sóng kinh muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu.
Nước trời : một sắc.
Phong cảch : ba thu.
+ Nhưng lại ảm đạm , hiu hắt:
Bò lau san sát,
Bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
+ Qua cách nhìn cảnh vật , ta đọc tâm trạng của khách vừa vui , vừa buồn , vừa tự hào , vừa tiếc nhớ .Vui với cảnh sông nước mênh mồn , có thuyền bè xuôi ngược .Buồn đau,nuối tiếc vì thấy cảnh chiến trường xưa ,chiến thắng oanh liệt còn hừng hực là thế , mà nay sao trơ trọi , hoang vu , hiu quạnh là vậy .Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết.Bởi thế:
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
+ Giọng điệu trầm lặng .Một tâm hồn phóng túng , mạnh mẽ cũng trở nên sững sờ , buồn tiếc.
=>Nhân vật khách , tuy có tính chất công thức của thể phú , đã được Trương Hán Siêu thổi vào , trở nên sinh động .Nhân vật khách chính là cái tôi của tác giả , một kẻ sĩ nặng lòng với đất nước, với lịch sửdân tộc.
5.2 Lời các bô lão:
- Bô lão:
+ Hình ảnh tập thể , người dân địa phương , có thể từng chứng kiến hoặc tham gia các trận chiến xưa.
+ Xuất hiện như một sự hô ứng có tính lịch đại,có thể nhằm tạo không khí đối đáp tự nhiên,kể cho khạch nghe về những trận thuỷ chiến.
+ Thái độ các bô lã nhiệt tình hiếu khách.
- Trận Bặch Đằng qua lời kể các bô lão:
+Lời kể được sắp xếp tho dòng hồi tưởng.
+Giới thiệu hai trận đánh.
+Tả lại cnảh chiến trận,chủ yếu là chiến tích năm 1288.
Lúc đầu ra quân trong thế trận giằng co , ngang sức ngang tài , bất phân thắng bại .Cuộc chiến diễn ra ác liệt , đến nỗi : Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất sắp đổi.
Câu văn sử dụng biện pháp đối lập báo hiệu một trận đánh kinh thiên động địa .
So sánh trận chiến thắng Bạch Đằng với trận Xích Bích , Hợp Phì ( của Trung Hoa ) với niềm tự hào dân tộc.
Nghệ thuật : lời kể súc tích , đầy cảm hứng , có hồi hộp nhưng sảng khoái của người trong cuộc .Lời kể , lúc dùng câu ngắn gợi không khí gấp gáp căng thẳng , lúc câu dài gợi không khí trnag nghiêm dõng dạc.
Cách miêu tả ngắn gọn mà vẫn cụ thể , tỉ mỉ khiến người đọc tưởng như cuộc chiến đang diễn ra trong hiện tại.
- Lời bình luận các bô lão:
+Suy nghĩ về nỗi nhục của kẻ thù .
+Suy ngẫm về nguyên nhân ta thắng , địch thua .Ta chiến thắng vì ta chiến đấu bảo vệ non sông , chiến đấu cho chính nghĩa .Trời lại cho nơi đất hiểm .Nhưng điều quyết định là ta có nhân tài.
Từ khi có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là : trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : nhân tài giữ cuộc điện an.
Nhấn mạnh yếu tố con người là cảm hứng mang tính nhân văn , có tầm triết lý sâu sắc. Lời bình luận vừa hào hùng sâu lắng thiêng liêng.
+Tâm trạng của các bô lão khi nhắc đến người xưa , cũng buồn thương , tiếc nuối :
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người cưa chừ lệ chan.
+Lời ca của bô lão là lời tuyên ngôn sảng khoái , dõng dạc về chân lý: nhưng kẻ nghĩa tiêu vong , người anh hùng sẽ bất tử như sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông lịch sử.
5.3 Lời ca của khách:
- Ca ngợi công đức hai vị vua Trần ( Trần Thánh Tông , Trần Nhân Tông) đem lại thái bình cho đất nước.
- Bày tỏ khát vọng hoà bình muôn thuở.
- Ở câu cuối , khách vừa biện luận , vừa khẳng định chân lý : sức mạnh chính nghĩa , đạo đức dân tộc là yếu tố quyết định chiến thắng.
- Lời ca của khách chỉ có bốn câu mà ý tưởng sâu xa.Giọng văn phơi phới , hân hoan.
6.Chủ đề:
Qua việc tái hiện không khí chiến thắng hào hùng trên sông Bặch Đằng , tác phẩm toát lên niềm tự hào dân tộc - tự hào về truyền thống anh hùng bất khất , tinh thần chuộng đạo lý của dân tộc , vẻ đẹp tâm hồn con người Đại Việt
Có gì sai sót mong bạn bỏ qua nhé
Tham khảo:
Trương Hán Siêu là một danh nhân văn hoá thời Trần, ông sinh ra ở Yên Ninh – nay thuộc thành phố Ninh Bình. Là người có tài về cả chính trị lẫn văn chương, ông có học vấn uyên bác, tri thức sâu rộng và tính cách hết sức cương trực, thẳng thắn. Lại vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, được giao phó các chức quan quan trọng trong cả bốn đời vua Trần và có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Bởi lẽ đó ông rất được các vua Trần kính trọng, tôn gọi là Thầy, khi mất được truy tặng chức Thái Bảo, Thái Phó và được thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám. Sinh thời, ông để lại nhiều tác phẩm, hiện còn 17 bài thơ và 2 bài văn xuôi, trong đó xuất sắc nhất phải kể đến bài “Phú Sông Bạch Đằng” – áng thiên cổ hùng văn của lịch sử văn học Việt Nam. Sông Bạch Đằng có lẽ chẳng phải xa lạ gì với mỗi người con dân đất Việt. Đây là địa danh đã bao lần đi vào lịch sử với những mốc son chói lọi, đây cũng là nơi đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho các tác giả, các thi nhân yêu nước đương thời. Ta có thể kể đến “Bạch Đằng Giang” của Trần Minh Tông, cũng biết đến “Bạch Đằng Giang Phú” của Nguyễn Mộng Tuân, hay “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi. Đó đều là các tác phẩm có tiếng tăm ở thời trung đại bấy giờ, tuy nhiên giữa những tác phẩm viết về địa danh sông Bạch Đằng thì tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu lại nổi lên như một tác phẩm xuất sắc nhất về bãi chiến địa lịch sử oai hùng này.
Tác phẩm của ông là tiêu biểu cho tình yêu và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên con sông Bạch Đằng, đồng thời khắc họa một cách chân thật và sinh động, hào hùng những cuộc chiến đẫm máu đầy anh dũng của nhân dân ta ngày xưa thông qua đoạn thứ hai của bài phú.
Đoạn thơ bắt đầu với hình ảnh các bô lão lê gậy bái phỏng kẻ làm khách:
“Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau”
Các bô lão có thể là những hình ảnh thực, những con người mà tác giả gặp trên sông, cũng có thể chỉ là sự hư ảo từ chính những tâm tư, tình cảm của tác giả tạo lên. Tuy nhiên, dù là thật hay ảo thì với hình ảnh các bô lão, tác giả đã gợi cho người đọc nhớ về hình ảnh của điện Duyên Hồng năm xưa với lời đồng thanh: “quyết đánh” đầy hào hùng như tạo điểm nhấn để đưa người đọc quay về con đường lịch sử, trở về với quá khứ, để rồi theo lời của các bô lão ấy mà làm sống lại những trang sử oai hùng một thời:
“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Các bô lão kể về cuộc chiến của Trần Hưng Đạo năm 1288 – trận chiến với chiến thắng vang dội khi bắt sống được Ô Mã và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược, khiến cho:
“Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông.”
Nhưng cũng lại không quên ngược dòng lịch sử để nhấn mạnh thêm về trận chiến của Ngô Quyền năm 938 khi đã dùng mưu đại phá quân Nam Hán một cách tài tình. Qua đó nói lên rằng nơi đây, Sông Bạch Đằng là thánh địa lưu dấu muôn trùng chiến công của dân tộc, để khẳng định rằng đây là chiến địa đáng tự hào trên đất Việt ta.
Từ nhịp thở dài, nhẹ nhàng, hoài niệm, tác giả chuyển qua nhịp thơ ngắn, xúc tích, tạo lên vẻ hào hùng, dứt khoát để khắc hoạ lên khí thế hùng hồn của thế chiến thời bấy giờ:
“Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.”
Với các con số ước lệ chỉ những sự vô cùng, vô tận và biện pháp phóng đại hùng biện, các hình ảnh đối lập giữa địch và ta làm cho người đọc tưởng chừng có thể chứng kiến đội quân ta ngày ấy, hùng mạnh, anh dũng, khí thế ngút trời. Dòng sông như sôi sục với muôn đội thuyền bè, chiến trường tráng liệt nhuộm một màu tinh kỳ rực rỡ. Thế nhưng thế sự khó lường khi hai bên ta địch cân sức cân tài, khí thế ta là thế, nhưng địch lại chẳng kém quân ta khi mà:
“Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!”
Tác giả đã mượn điển tích Bồ Kiên của nước Tần, mượn ý này để cho ta thấy rõ khí thế quân Nguyên khi vào đánh nước ta – quân đông tướng mạnh, tự tin vào thực lực của bản thân, khí thế cũng rềnh vang một cõi, càng tôn lên thói hống hách, ngạo mạn của bọn chúng. Bởi khí thế hai bên chẳng ai nhường ai, cân sức, ngang tài cho nên không chỉ tạo ra một màn mở đầu gây cấn mà còn tạo nên một trận đánh gay go, ác liệt, bất phân thắng bại. Trận đánh đó làm cho đất trời phải rung chuyển, thế sự phải xoay vần:
“Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.”
Một trận đánh có thể nói là “kinh thiên động địa”, Trương Hán Siêu đã dùng lời lẽ làm ta hình dung ra tầm vóc của trận đánh tựa như sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, là một trận đánh lớn lao và cao cả. Tưởng tượng trước mắt hiện ra một chiến trường khói lửa, gươm giáo đẫm máu, tiếng ngàn quân hô hào, tiếng trống trận thúc giục, tiếng vó ngựa, voi gầm. Người phải nằm xuống, kẻ vẫn anh dũng xông thẳng về trước, thiện chiến giết giặc. Những chiếc thuyền giặc lần lượt vỡ tan, chìm xuống dòng sông chảy nhuộm màu đỏ thẫm một trời. Thông qua nét bút tinh tế, những chi tiết phóng bút, khoa trương nhưng rất thần tình như vẽ lên một bức tranh sống, có âm thanh, có hình ảnh, có màu sắc, tô đậm một trang sử vang dội, chói lọi.
Phần kết cả bức tranh hào hùng ấy, tác giả tạo một nét chấm phá dứt khoát, khẳng định một chiến thắng vẻ vang của dân tộc:
“Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Tác giả lại tiếp tục nhắc đến điển tích về hai trận đánh Xích Bích của Tào Tháo và Hợp Phì của Bồ Kiên – hai trận đánh nổi tiếng của những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử để nhấn mạnh sự thất bại nhục nhã của giặc. Cả Tào Tháo và Bồ Kiên đều là những tướng tài, quân giặc thời bấy giờ cũng hùng hổ, khí thế tựa như quân Nam Hán ngạo mạng mà kéo quân sang nước ta. Bằng cách đề cao giặc để càng làm sáng rõ lên sức mạnh của dân ta, tác giả dùng phép so sánh hết sức tài tình khi đem so sánh kẻ thù với những nhân vật lỗi lạc, những con người tài giỏi, đặt chúng trong hoàn cảnh của những trận đánh to lớn trong lịch sử để rồi cuối cùng vẫn thất bại thảm hại trước chúng ta, trước những con dân đất Việt. Từ đó càng nhấn mạnh thêm chiến thắng oai hùng của ta và tô đậm sự thất bại nhục nhã của giặc.
Sông Bạch Đằng có lẽ chẳng phải xa lạ gì với mỗi người con dân đất Việt. Đây là địa danh đã bao lần đi vào lịch sử với những mốc son chói lọi, đây cũng là nơi đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho các tác giả, các thi nhân yêu nước đương thời
Với giọng điệu đầy nhiệt huyết mang âm hưởng hào hùng, khí thế tự hào, tác giả đã thành công kể lại cuộc chiến nơi bãi sông Bạch Đằng một cách sinh động và hào khí. Thông qua cách hình ảnh phóng đại, so sánh đầy tài tình kết hợp với các điển cố, điển tích trong lịch sử càng làm nâng cao tầm vóc của cuộc chiến, từ đó làm vang dội cuộc chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Qua đó ca ngợi nhân dân ta, ca ngợi cuộc chiến thắng anh dũng và bộc lộ niềm tự hào, tình yêu nước mãnh liệt của tác giả trước con sông Bạch Đằng vĩ đại chảy dài theo dòng lịch sử.
Lịch sử nước ta đã trải qua biết bao nhiêu là chiến thắng và có những chiến thắng thì gắn liền với những tên con sông lớn. Nhưng có lẽ con sông được lịch sử cũng như thơ ca văn học nhắc đến nhiều nhất là sông Bạch Đằng. Con sông ấy đã mang đến cho lịch sử dân tộc ta hai chiến thắng vang dội đó là chiến thắng của Ngô Quyền năm 938 và chiến thằng quân Nguyên Mông của nhà Trần. Và con sông ấy không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của chiến thắng lịch sử mà còn hiện lên trong thơ ca với tác phẩm Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu.
Trước tiên bài thơ ấy mở đầu với những câu thơ hay để mang đến những cái nhìn của người khách trong bài về sông Bạch Đằng. Có thể nói qua những câu thơ ấy tất cả những vẻ đẹp chí cảnh của con sông anh hùng hiện lên thật rõ:
“Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
……
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. ”
Những câu thơ ấy không chỉ nói đến phẩm chất phóng túng và tâm hồn ngao du đây đó của người khách kia mà còn nói đến những vẻ đẹp của sông Bạch Đằng. Vẻ đẹp ấy được phản quang qua tâm hồn và đôi mắt vọng cảnh, sự tự hào về lịch sử ông cha. Hàng loạt những địa danh được hiện lên, nào là Nguyên Tương, Cửa Giang, Ngũ Hồ, Tam Bách… hiện lên rồi cuối cùng người khách ấy cũng đến với sông Bạch Đằng. con sông ấy thuộc tỉnh Quảng Ninh là con sông không chỉ hữu tình mà còn có công trong nhiều trận chiến thắng. Ngược bến Đông Triều để tới với vùng thủy chiến anh hùng ấy. Trong sự bao la của non nước đất trời muôn vàn sóng kình nổi lên thành từng lớp lớp một. Nó gợi lên cái nhìn thật xa xăm mênh mông sóng nước dập dềnh. Trên con sông ấy những con thuyền đuôi trĩ một màu giống nhau như làm nên một bức tranh sông nước con thuyền cong đẹp đến mê hồn người. Tất cả mang đến cho tâm hồn ta những cảm xúc yên bình thanh thản. Đọc đến đây người đọc có thể cảm nhận được hết những cái thần thái trí cảnh của một miền sông nước hiền hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật. màu trời màu nước sông hiền hòa hợp làm một. Bên bờ những bông lau, những san sắt cạnh những bến lách đìu hiu. Như vậy có thể thấy con sông Bạch Đằng không mang vẻ đẹp hung bạo như con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân mà nó mang vẻ đẹp của một dòng sông hiền hòa thơ mộng.
Không những thế con sông ấy còn hiện lên những vẻ đẹp hào hùng với những chiến công mà nó đạt được trong lịch sử. Con sông ấy qua những vần thơ của nhà thơ Trương Hán Siêu với hình ảnh mang đến cảnh tượng thất bại của kẻ thù. Nào là giáo gãy, nào là gò đầy sương khô. Những hình ảnh như những minh chứng về chiến công mà sông Bạch Đằng đem lại cho nhân dân Việt nam ta. Bọn xâm lăng đã cả gan mang quân sang xâm chiếm nước ta một cách phi nhân đạo, phi chính nghĩa như thế mà “Sông núi nước Nam vua Nam ở” cho nên chúng sẽ chỉ có một kết quả là vùi xác ở sông Bạch Đằng mà thôi. Có thể thấy rằng con sông hiền hòa như thế nhưng khi anh hùng khi tức giận thì nó lập tức trở thành một người anh hùng dang rộng lòng sông của mình để chôn vùi những con người độc ác và bảo vệ nhân dân ta.
Và con sông ấy hiên lên đẹp hơn rõ nét hơn khi các bô lão nói về những trận đánh trên sông Bạch Đằng năm xưa. Đó là vẻ đẹp của thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới, nào người sáu quân, nào gươm sáng lóa. Con sống hiện lên trong cảnh chiến đấu kiên cường của nhân dân ta. Họ vẫn chống đối lại phía kẻ thù một cách kiên cường và đến lúc kết thúc con sông có quyết định rất lớn đến việc thắng thua trận chiến ấy. Thế rồi khi ánh hoàng hôn buông xuống dòng sông ấy làm cho nước thủy triều bắt đầu rút xuống khiến cho quân ta chuyển biến thể lực. thời cơ đã đến quân đội ta đã rút về để dụ giặc vào trận địa trên sông Bạch Đằng:
“Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi. ”
Con sông ấy đã trở thành điều kiện để cho quân đội ta chiến thắng vẻ vang còn cái lũ ác nhân phi nhân đạo kia tướng thì bị bắt sống, quân có người chết vùi xương trong trận địa kiên cố ấy. Có lẽ rằng con sông ấy đã làm nên lịch sử nước nhà. Nó không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông biết chiến đấu. Nó dường như mang linh hồn dân tộc Đại Việt ta.
Đó chính là những nét đẹp thiên nhiên và những nét đẹp lịch sử của ta. Tuy nhiên con sông Bạch Đằng không chỉ đẹp trong quá khứ mà nó còn đẹp trong cả hiện đại ấy. Thế nhưng nét đẹp trong quá khứ là nền tảng của nét đẹp trong hiện tại. Này nay con sông ấy vẫn hiền hòa như thế nhưng cũng có lúc sóng nước ồn ào như ôn lại những chuyện cũ lấy lừng trong lịch sử. Còn đối với kẻ thù thì mối nhục nước lớn thua nước nhỏ ấy không bao giờ rửa được. Ta thấy tự hào về con sông ấy và khẳng định rằng Việt Nam tuy nhỏ nhưng không chỉ con người mà ngay cả dòng sông cũng hiền hòa thiện cảm. Thế nhưng một khi đã có chiến tranh thì cả người cả sông đều quyết tâm giữ gìn non sông ấy đến cùng.
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao. “
Sóng sông Bạch Đằng lại cuồn cuộn tuôn chảy về biển Đông rộng lớn sau bao những khó khăn của cuộc chiến tranh. Khi tức giận kẻ thù sông dãn lòng mình như một cái miệng lớn mà nuốt sông những kẻ thù, khi thời bình lập lại sông lại hiền hòa thân thiện như đức tính ưa chuộng hòa bình của người Việt Nam. Những kẻ ác thì bị tiêu vong, người ngay thẳng sông nâng lên để đời sau nhớ mãi.
Qua đây ta thấy Trương Hán Siêu đã mang đến cho ta những bức tranh sông Bạch Đằng đầy màu sắc, trạng thái, mang nhiều nét đẹp. Con sông ấy không những có nét đẹp của quá khứ với cảnh đẹp thiên nhiên, với những chiến công lừng lẫy mà con sông ấy còn rất đẹp trong hiện tại một vẻ đẹp hiền hòa tuôn chảy đáng yêu biết bao.
Bạn tham khảo nha