K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 4 2016

Va ren hứa sẽ chăm sóc cụ phan trước khi sang nhậm chức,nhưng đó là lời hứa dối trá,hứa để ve vuốt ,trấn an nhân dân VN đang đấu tranh dồi trả PBC.Vì vậy NAQ dã gọi đó là 1 trò lố.

 

20 tháng 4 2016

“Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” là một truyện ngắn có tính chất châm biếm sâu cay. Nội dung tư tưởng của câu chuyên được người đọc hình dung trọn vẹn khi chúng ta chứng kiến toàn bộ cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu. Trong cuộc chạm trán ấy, Nguyễn Ái Quốc đã để cho Phan Bội Châu hoàn toàn im lặng. Thế nhưng sự im lặng ấy chẳng những đã thể hiện được bản lĩnh và nhân cách của nhà cách mạng mà còn làm cho Va-ren sửng sốt cả người.

Đọc xong câu chuyện quả thực mới đầu chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên bởi không hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc lại không để Phan Bội Châu vạch tội hay thét mắng vào mặt kẻ thù mà chỉ im lặng với nụ cười ruồi thoáng qua kín đáo và vô hình trên khuôn mặt. Thế nhưng đọc lại câu chuyện nhiều lần chúng ta mối thấy cách ứng xử kia là hoàn toàn có lý.

Phan Bội Châu im lặng thế nhưng sự im lăng ấy lại là câu trả lời kiên quyết nhất. Câu trả lời ấy chứa đựng tất cả sự coi thường và khinh bỉ của Phan Bội Châu với một tên phản đẳng. Với những người như kiểu Va-ren “con người đã phản bội giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng loại đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình” thì chẳng có điều gì cần nói. Cái nhân cách ấy hiện diện trước mặt nhà cách mạng mới xấu xa bỉ ổi làm sao. Bởi trước mặt hắn rõ ràng là một sự khác biệt vô cùng lớn, một con người đã “hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình" một nhân cách sáng ngời và cao khiết biết bao.

Như vậy, ở một khía cạnh, sự im lặng của Phan Bội Châu thực sự là một câu trả lời thích đáng khiến Va-ren vừa phải xấu hổ lại vừa phải cảm thấy bực mình, ở trong hoàn cảnh ấy, càng tự đối thoại, càng để lộ ra cái thủ đoạn xảo quyệt, xấu xa. Và như vậy, hóa ra Va-ren lại đang tự phơi bày tất cả cái bản chất của mình.

Sự im lặng và cái nụ cười thoáng qua kín đáo, vô hình của Phan Bội Châu còn thể hiện cái tầm hiểu biết và cái bản lĩnh cứng cỏi của nhà cách mạng. Bởi cuộc đời sóng gió phong ba đã giúp Phan Bội Châu hiểu rằng những lời hứa ngon ngọt của kẻ quyền cao chức trọng đang hiện diện trước mặt ông kia chỉ là những lời hứa phỉnh. Bọn cầm quyền và bọn xâm lược không bao giờ chịu từ bỏ những mục đích xấu xa, tàn ác. Và vì thế cuộc chiến đấu của chúng ta không bao giờ được phép ảo tưởng ngây thơ.

Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc thường rất giàu trí tuệ. Vì thế mà ý nghĩa của nó cũng thường rất thâm thuý, sâu xa. ở truyện ngắn này, với một tình huống độc đáo và sắc sảo, với một giọng văn đả kích châm biếm đầy khinh bỉ và với một lối viết ngắn gọn, tài hoa, Nguyễn Ái Quốc đã biến những trang văn của mình thành một lời gươm sắc sảo chống thực dân. Đồng thời những trang văn ấy cũng ngợi ca phẩm chất, nhân cách và bản lĩnh cao đẹp của Phan Bội Châu – nhà cách mạng ưu tú của dân tộc những năm đầu thế kỷ.

Chúc bạn học tốt!hihi

25 tháng 4 2016

thanks bảo

6 tháng 4 2016

ai trả lời giúp chi vs 

Tl xong add face hộ nha : Nick face Quỳnh Chi Lê ( Park Chanyeol)

24 tháng 4 2016

Bài này bạn nên chia TB thành 2 đoạn chính và 1 đoạn nói về nụ cười vĩ đại

Sau đây là 1 bài mẫu mong bạn tham khảo:

Truyện ngắn "Những trò lố hay Va-ren và Phan Bội Châu" ra đời năm 1925 ngay sau khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt cóc ở Trung Quốc và giải về Hỏa Lò để xử án. Đây là một truyện ngắn rất độc đáo và tinh tế của Nguyễn Ái Quốc nhằm vạch trần bộ mặt và bản chất xấu xa, đen tối của viên toàn quyền Đông Dương, đồng thời ca ngợi tinh thần và ý chí hiên ngang, bất khuất của nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu.

Mở đầu truyện, Nguyễn Ái Quốc cho người đọc biết viên toàn quyền Đông Dương "nửa chính thức" hứa sẽ "chăm sóc" Phan Bội Châu. Hắn đang trên đường đến Việt Nam để thực hiện "lời hứa" đó. Nhưng từ lúc hắn hứa đến khi hắn sang Việt Nam mất đến bốn tuần. Có hai câu hỏi được đặt ra ở đây đó là: Tại sao lời hứa của hắn lại "nửa chính thức"? Tại sao lại đến tận bốn tuần trong khi cụ Phan Bội Châu lại đang ở trong tù? Rõ ràng đã có sự mâu thuẫn giữa lời nói và cách hắn thực hiện lời nói của mình. Chỉ bấy nhiêu thôi nhưng dưới ngòi bút tài tình và cách diễn đạt thâm thúy của Nguyễn Ái Quốc, trò lố lăng bẩn thỉu của Va-ren đã sớm bộc lộ. Rõ ràng lời hứa suông của hắn chỉ để trấn an, đối phó với dư luận đang xôn xao cả ở Pháp lần Việt Nam. Hơn nữa, hắn vừa đang mới nhận chức, hắn phải làm một điều gì đó để tỏ rõ sự "hào hiệp", "độ lượng" của mình đối với nhà cách mạng được hàng vạn người kính mến. Cho nên, với cách nói đầy châm biếm của tác giả, bước đầu Va-ren hiện ra chẳng mấy tốt đẹp, chẳng đáng tin tưởng. Tuy nhiên, chỉ đến khi gặp Phan Bội Châu, hắn mới hiện nguyên hình là một con cáo già xấu xa, bẩn thỉu. "Tôi đem tự do đến cho ông đây!" - "tay trái thì nâng cái gông to kệch đang xiết chặt Phan Bội Châu". Đem tự do đến cho người khác mà như thế ư? Đã thế, hắn lại tiếp tục dùng lời lẽ của một kẻ hèn hạ để giả vờ ca tụng, kính trọng Phan Bội Châu. Nhưng những lời nói tiếp theo của hắn để lộ hoàn toàn bản chất xấu xa, dơ bẩn của hắn: "Chúng ta có thể cùng nhau làm cho nước ông trở thành một quốc gia tân tiến lớn, một xứ tự trị...". Những lời nói của hắn nghe mới thật "êm tai", "dễ chịu" làm sao! Một quốc gia tân tiến ư? Bọn chúng đã vơ vét, cướp bóc hết của cải, tài nguyên thiên nhiên và cả sức lực của nhân dân ta. Quốc gia tự trị ư? Chúng đàn áp, đánh đập, hành dạ dã man người Việt. Vậy mà những lời nói ấy vẫn có thể tuôn ra từ miệng một tên quan đứng đầu xứ Đông Dương này. Rõ ràng, đây chỉ là trò bịp bợm, mị dân. Hắn thật quá tầm thường khi nghĩ rằng có thể thuyết phục nhà cách mạng tài ba của chúng ta bằng những lời lẽ đó.

Đã thế, hắn lại còn tự vạch trần bản chất xấu xa, hèn hạ của mình khi tự nhận là kẻ quay lưng, trở mặt phản bội lại Đảng xã hội Pháp. Hắn cho rằng như thế là thông minh, sáng suốt. Hắn lấy dẫn chứng là những kẻ phản bội như hắn để thuyết phục Phan Bội Châu. Đây đúng là một kẻ "mặt dày mày dạn", trơ trẽn, đã không biết nhục về hành động phản bội của mình lại còn vỗ ngực xưng danh. Một kẻ bẩn thỉu, trơ tráo như hắn có đáng để Phan Bội Châu phải lưu tâm. Lời nói của hắn chỉ như "nước đổ lá khoai" đối với Phan Bội Châu. Trong khi tên Va-ren thao thao bất tuyệt ca tụng bản thân, ca tụng những kẻ phản bội, ca tụng những "lí tưởng" đen tối của hắn thì nhà cách mạng của chúng ta chỉ im lặng, dửng dưng như không hề nghe thấy. Thái độ im lặng của cụ thể hiện sự khinh bỉ, coi thường con người đang đứng trước mặt mình. Chính thái độ dửng dưng đã làm cho Va-ren "sửng sốt cả người". Hắn không hiểu tại sao những lời lẽ đường mật của hắn lại không thể làm lay động Phan Bội Châu. Cũng phải thôi, hai con người này với hai lí tưởng đối lập nhau, một bên với lí tưởng cách mạng cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh vì độc lập tự do cho nhân dân, của đất nước; một bên với "lí tưởng" tầm thường, đen tối, tất cả chỉ vì lợi ích riêng tư của bản thân. Với tư tưởng và suy nghĩ tầm thường, nhỏ bé như vậy, Va-ren sao hiểu được tâm hồn và suy nghĩ của Phan Bội Châu. Hắn không thể nào hiểu được vì sao con người ấy lại sẵn sàng hi sinh cả gia đình và của cải để sống xa lìa quê hương nhằm tìm mọi cách để giành lại tự do cho dân tộc.

Cuối truyện, tác giả đã để cho anh lính An Nam quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép của Phan Bội Châu nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay. Cái mỉm cười "kín đáo", "vô hình", "như cánh ruồi lướt qua" ấy đã bộc lộ con người hiên ngang, bất khuất và thái độ mỉa mai, ngạo nghễ của Phan Bội Châu.

Bằng ngòi bút tài ba, sinh động và sức kể chuyện cuốn hút, hấp dẫn, thông qua Phan Bội Châu, tác giả đã giúp người đọc vạch trần bộ mặt xấu xa, lố bịch của viên toàn quyền Đông Dương. Đồng thời qua đó, Nguyễn Ái Quốc muốn ca ngợi tinh thần và ý chí sắt đá cùng tính cách hiên ngang, bất khuất của vị chiến sĩ cách mạng lão thành.

24 tháng 4 2016

dàn ý nha bkkk

 

20 tháng 4 2016

Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập.

 
Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt của chúng và chỉ ra con đường cách mạng cùng tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.
 
Đầu thế kỉ XX, một số nước lớn ở châu Âu thi nhau xâm chiếm thuộc địa ở nhiều nơi trên thế giới để vơ vệt của cải và nhân lực. Chính sách cai trị của chế độ thực dân rất hà khắc, dã man nên cuộc sống nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dâng lên ngày càng mạnh mẽ.
 
Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) mà Nguyễn Ái Quốc mỉa mai gọi là cuộc chiến tranh vui tươi thực chất là cuộc xung đột ác liệt giữa các đế quốc để tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi. Nó đẩy nhân dân lao động ở các nước tư bản và dân chúng nghèo khổ ở thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.
 
Bản án chế độ thực dận Pháp là tác phẩm được Nguyễn Ái Quốc dành nhiều thời gian và công sức để hoàn thành. Mỗi chương của tác phẩm viết về một chủ đề và tất cả hợp thành bản cáo trạng phong phú, đanh thép về tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Với thiên phóng sự điều tra này, lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thực dân bị lên án một cách toàn diện, cụ thể, chính xác và có hệ thống.
 
Bản án chế độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực thống trị tàn bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người nô lệ nghèo khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn chương của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo.
 
Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này, tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh thảm khốc để mang lại quyền lợi cho nước Pháp. Lợi dụng xương máu của những con người nghèo khổ để làm giàu, đó là một trong những tội ác ghê tởm nhất của chủ nghĩa thực dân.
 
Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ và tư liệu phong phú, xác thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu chung của bài văn là vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa thông cảm, xót thương.
 
Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.
 
Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân.
 
Phần một: Chiến tranh và người bản xứ.
 

Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ.

Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. 

 
Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay.
 
Số phận bi thảm của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả rất cụ thể: … họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu.
 
Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất chứa cảm xúc xót xa, ngậm ngùi:
 
Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng… Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ…
 
Nhiều người dân thuộc địa tuy không phải ra trận nhưng ở hậu phương, họ bị bắt buộc làm công việc rất nguy hiểm là chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh: Làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”, nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; Họ cũng hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.
 
Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng cố bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.
 
Phần hai: Chế độ lính tình nguyện.
 
Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho “nước mẹ Đại Pháp” như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể rằng:
 
Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.
 
Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để kẻ thù tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,… Bọn thực dân coi lính thuộc địa không phải là người mà chỉ là thứ vật liệu biết nói. Cách gọi đó tự nó đã có tác dụng tố cáo mạnh mẽ bản chất dối trá, lừa bịp và dã man của chính quyền thực dân. Những viên công sứ Pháp (đứng đầu một tỉnh) cùng bọn quan lại dưới quyền tiến hành vây bắt và cưỡng bức người dân phải đi lính, lợi dụng chuyện bắt lính để dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu:
 
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.
 

Chúng sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật và đàn áp dã man nếu như dám chống đối. Tác giả đã kể ra sự thực phũ phàng là người dân thuộc địa chỉ có hai con đường: hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.

Trong khi làm những điều độc ác như đã kể trên, chính quyền thực dân vẫn không ngừng rêu rao về tinh thần tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dường chỉ làm bộc lộ rõ thêm thủ đoạn lừa bịp trơ trẽn ấy:
 
Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
 
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
 
Tác giả mỉa mai chua chát luận điệu dối trá ấy bằng những câu hỏi tu từ:
 
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập" và “không ngần ngại”?
Trong phần Chế độ lính tình nguyện, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thực tố đối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền để lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng trong chính sách cai trị đối với người dân thuộc địa.
Phần ba: Kết quả của sự hi sinh.
 
Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn:
 
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người “An nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.
 
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao ? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao ? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao ? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”đó sao?
 
Mỉa mai thay, khi chiến tranh vừa chấm dứt thì các lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt (!) Những người lính từng được tâng bốc bằng bao lời lẽ hoa mĩ thì bây giờ mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu" như trước đây.
 
Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh cho chính nghĩa và công lí như lời rêu rao đối trá của lũ thực dân chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ là chế độ không hề biết đến chính nghĩa và công lí.
 
Bộ mặt tráo trở của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn qua những hành động vô nhân đạo: tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Sau chiến tranh, người dân thuộc địa trở về vị trí hèn hạ ban đầu:
 
Thế là những “cựu binh" – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một,chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.
 
Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.
 
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân.
 
Ngôn ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất rõ nét. Những từ mỉa mai như; “con yêu", “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế”, “lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”, "vật liệu biết nói…” vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực dân, vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa.
 
Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích.
 
Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.
 
Đoạn trích Thuế máu của tác giả Nguyễn Ái Quốc đã giúp người đọc hiểu được bản chất độc ác, dã man và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chính quyền thực dân Pháp qua việc dùng người dân các xứ thuộc địa làm vật hi sinh để bảo vệ quyền lợi của chúng trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm cũng chứng minh Nguyễn Ái Quốc là một cây bút chính luận xuất sắc trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Màn đêm cùng ánh trăng ngày xuân lấp lánh trên bầu trờiCùng làn gió cuốn đi thật xa những buồn phiền chốn đâyĐể những tháng năm qua đi, và kí ức sẽ tan biến điHòa mình vào khoảng không trên bầu trời đêm nayThời gian đã trôi qua thật nhanhEm mơ vê giấc mơ giờ đã tanNhìn quanh, chỉ còn căn phòng trốngGiọt lệ vẫn mãi rơi giữa màn đêmBuồn sao cứ vây quanh hoài thôiVẫn nhớ ngày đó em...
Đọc tiếp

Màn đêm cùng ánh trăng ngày xuân lấp lánh trên bầu trời
Cùng làn gió cuốn đi thật xa những buồn phiền chốn đây
Để những tháng năm qua đi, và kí ức sẽ tan biến đi
Hòa mình vào khoảng không trên bầu trời đêm nay


Thời gian đã trôi qua thật nhanh
Em mơ vê giấc mơ giờ đã tan
Nhìn quanh, chỉ còn căn phòng trống
Giọt lệ vẫn mãi rơi giữa màn đêm

Buồn sao cứ vây quanh hoài thôi
Vẫn nhớ ngày đó em đã rất đau
Là khi, ta bước đi thật nhanh
Và rồi chẳng nhìn nhau dẫu 1 lần


Cuộc sống đó chỉ là phù du, mà tại sao em lại cố gắng
Mãi đuổi theo, dù đã biết rằng sẽ không như mơ
Từng vì sao trên bầu trời kia, một vì sao sẽ hoài cô đơn
Có phải là điều đương nhiên?


Và nếu như chúng ta, từ lâu đã không chung con đường
Thì không có lí do để em đợi chờ hình bóng anh
Giờ nước mắt thôi không rơi, và em sẽ không còn ghét anh
Ngay khi mà chính em đang cười thầm trong tim

Giờ đây, giấc mơ lạnh lùng khi
Đã tan vào quá khứ từ rất lâu
Và ánh sáng điểm tô màu mắt
Từng giọt nước mắt rơi, như hoa trong ánh nắng mai

Dù cho có trở về quá khứ, dù cho có yêu người lần nữa
Cũng không thể trở về lại ngày xưa ta bên nhau
Giờ đây em phải làm sao đây, phải làm sao để có được nó?
Trái tim của người em yêu


Giờ em phải cố quên thời gian lúc em đi bên người
Và dường như trái tim của em đã vỡ tan mất rồi
Giờ em sẽ không yêu ai, sẽ không có ai có thể
Làm trái tim này vỡ tan như ngày người vội ra đi


Những năm tháng năm xưa ta luôn có nhau
Bây giờ đã xa thật xa


Màn đêm cùng ánh trăng ngày xuân lấp lánh trên bầu trời
Cùng làn gió cuốn đi thật xa những buồn phiền chốn đây
Để những tháng năm qua đi, và kí ức sẽ tan biến đi
Hòa mình vào khoảng không trên bầu trời đêm nay


Mong ước này, em vẫn luôn luôn hi vọng
Nhành hoa kia sẽ chôn vùi đi những ngày xưa có nhau
Vầng trăng vẫn đang cô đơn, cùng với những ngôi sao ấy
Như đang thầm chiếu sáng cả bầu trời đêm nay 

là bài hát gì

6
19 tháng 2 2016

hazy môn ( ánh trăng huyền ảo )

Chỉ theo trí nhớ cà tàng của mình thôi, chưa chắc đúng nhá !!! leu

19 tháng 2 2016

hazy moon nha, ghi nhầm

 

Câu 1: Văn bản " Cây tre Việt Nam" của nhà văn Thép Mới tảcay tre với những vẻ đẹp và phẩm chất gì? Vì sao có thể nói cây tre là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt NamCâu 2: a) Vì sao văn vản "Bức thư của thủ lĩnh da đỏ" được gọi là văn bản nhật dụng? Nêu nội dung ý nghĩa của văn bảnb) Viết đoạn văn ( 5 - 7 câu ) trình bày lí do về sự cần thiết phải bảo vệ thiên nhiên và môi...
Đọc tiếp

Câu 1: Văn bản " Cây tre Việt Nam" của nhà văn Thép Mới tảcay tre với những vẻ đẹp và phẩm chất gì? Vì sao có thể nói cây tre là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam

Câu 2: 

a) Vì sao văn vản "Bức thư của thủ lĩnh da đỏ" được gọi là văn bản nhật dụng? Nêu nội dung ý nghĩa của văn bản

b) Viết đoạn văn ( 5 - 7 câu ) trình bày lí do về sự cần thiết phải bảo vệ thiên nhiên và môi trường,trong đoạn văn có sử dụng ít nhất một biện pháp tu từ đã học ( gạch chân và chỉ rõ biện pháp tu từ đó )

Câu 3: Trình bày những hiểu biết của em về thể loại kí hiện đại? Văn bản kí "Cô Tô" cuả Nguyễn Tuân mang đến cho em những hiểu biết gì?

Câu 4: Kiến An quê hương chúng ta được thiên nhiên ưu đãi nhiều phong cảnh đẹp và hữu tình. Hãy tả lại một cảnh đẹp mà em ấn tượng nhất ( đồi Thiên Văn )

4
30 tháng 4 2016

Câu 1:chung thủy,đẹp,giàu sức sống,thanh cao,giản dị,nhũn nhặn,ngay thẳng,thủy chung,can đảm,.....Cây tre mang phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam, vì thế có thể nói cây tre là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

30 tháng 4 2016

còn lại dài lăm -nhác ghi

9 tháng 4 2019

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Ái Quốc (những nét chính về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác…)

- Giới thiệu về văn bản “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Lời hứa của Va-ren với Phan Bội Châu

- Lời hứa của Va-ren: Va-ren nửa chính thức hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu

⇒ Lời hứa mập mờ, chứa đựng sự hài hước, lố bịch

- Thực chất của lời hứa: ngài chỉ muốn chăm sóc đến khi nào ngài yên vị thật xong xuôi bên ấy đã

⇒ Coi lời hứa không quan trọng bằng việc ổn định công việc, địa vị của mình

- Lời bình của tác giả: liệu quan Toàn quyền Pháp Va-ren sẽ “chăm sóc” vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao

⇒ Sử dụng hàng loạt các từ nghi vấn, qua đó cho thấy thái độ mỉa mai, giễu cợt của tác giả

2. Cuộc gặp gỡ giữa Va-ren và Phan Bội Châu

- Cách giới thiệu về hai nhân vật của tác giả có sự tương phản, đối lập rõ rết, qua đó làm nổi bật tính cách của mối nhân vật:

+ Va-ren: người phản bội giai cấp vô sản Pháp, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, rường bỏ giai cấp mình

⇒ Kẻ đê hèn, phản bội

+ Phan Bội Châu: hi sinh cả gia đình và của cải để không nhìn thấy bọn cướp nước mình, sống xa lìa quê hương, bị bọn thực dân nhử vào muôn cạm bẫy, bị kết án tử hình vắng mặt…

⇒ Một người tù, một nhà cách mạng vĩ đại

- Cuộc gặp gỡ giữa Va-ren và Phan Bội Châu:

+ Va-ren: độc thoại một mình: tuyên bố thả Phan Bội Châu với điều kiện phải trung thánh, hợp lực cộng tác với Pháp, khuyên Phan Bội Châu từ bỏ lí tưởng chung, bắt tay với Va-ren

⇒ Va-ren là kẻ bịp bợm, xảo trá

+ Phan Bội Châu: im lặng

3. Thái độ của Phan Bội Châu

- Im lặng, dửng dưng trước những lời nói của Va-ren

- Đôi ngọn râu mép nhếch lên một chút rồi hạ xuống ngay và điều này chỉ diễn ra một lần

- Mỉm cười kín đáo, vô hình và im lặng, như cánh ruối lướt qua

⇒ Thái độ ngạc nhiên, coi thường và nhân cách cứng cỏi, bản lính, không chịu khuất phục của người tù

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

+ Nội dung: “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” đã khắc họa được hai nhân vật có tính cách đại diện cho hai lực lượng xã hội hoàn toàn đối lập nhau ở nước ta thời Pháp thuộc

+ Nghệ thuật: biện pháp tương phản, đối lập, giọng văn sâu sắc, hóm hỉnh, khả năng tưởng tượng, hư cấu…

26 tháng 7 2019

Trong văn bản “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” của Nguyễn Ái Quốc, bằng những tưởng tượng độc đáo của tác giả, nhân vật Phan Bội Châu để lại trong lòng người đọc nhiều yêu mến, cảm phục và thích thú. Ngược lại với sự ba hoa, khoác lác của Va-ren, từ đầu đến cuối Phan Bội Châu chỉ im lặng. Ông phớt lờ, coi như không có Va-ren trước mặt. Sự im lặng, dửng dưng của Phan Bội Châu thể hiện một thái độ khinh bỉ cực độ, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước kẻ thù, cho dù đó là Toàn quyền Đông Dương đi chăng nữa. Không chỉ vậy, nhà văn còn để nhân vật hiện lên qua lời kể của hai nhân vật khác: anh lính dõng An Nam và một nhân chứng mà tác giả “xin chẳng dám nêu tên”. Theo lời anh lính dõng, anh ta có thấy “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi”. Với chi tiết này, trong con mắt của Phan Bội Châu, Va-ren cũng chỉ là một đứa trẻ. Dường như thế vẫn chưa diễn tả hết được thái độ khinh miệt của Phan Bội Châu đối với Va-ren, theo lời của nhân chứng tưởng tượng khác thì: Phan Bội Châu đã nhổ vào mặt Va-ren. Và Người lại còn chua thêm: “cái đó thì có thể”.

1 tháng 4 2016

mb: neu ai hoi toi mai sau muon lam nghe gi thi toi se tra loi ngay la lam ki su

kb: toi rat thick lam ki su tuong lai se xay dung dat nuoc, con ban thi sao?

1 tháng 4 2016

lay ong di qua, lay ba di lai cho tui xin tick