Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
+ Thời nguyên thuỷ :
Giai đoạn tối cổ (đá cũ): Dấu tích tìm thấy ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn); Núi Đọ (Thanh Hoá) ; Xuân Lộc (Đồng Nai)... có niên đại cách đây khoảng 40 - 30 vạn năm.
+ Thời kì Văn Lang -Âu Lạc (thời dựng nước )
- Khoảng thế kỉ VTI TCN, nước Văn Lang thành lập, kinh đô ở Bạch Hạc (Phú Thọ), đứng đầu nhà nước là vua (Hùng Vương), giúp việc cho vua là các Lạc hầu, Lạc tướng. Cả nước chia thành 15 bộ, dưới bộ là các làng, chiềng, chạ. Nhà nước Văn Lang chưa có luật pháp và quân đội.
- Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược, năm 207 TCN Thục Phán đã sáp nhập Lạc Việt và Tây Âu hợp thành nhà nước Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương, đóng đỏ ở Phong Khê (Cổ Loa - Hà Nội). Bộ máy nhà nước như thời Hùng Vương nhưng quyền hành nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc trị nước.
+ Thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc :
- Các triều đại phong kiến Trung Quốc : Triệu, Hán, Ngô, Lương, Tuỳ và Đường thống trị nước ta từ năm 179 TCN đến năm 905. sử cũ gọi thời kì này là thời Bắc thuộc.
-gồm3giai doạn:
-Giai đoạn nguyên thủy
-Giai ddoạn dựng nước và giũ nước
-Giai đoạn đấu tranh giành đọc lập
Thời đại dựng nước đầu tiên là thời Văn Lang:
* Thời Văn Lang:
- Thời gian: Khoảng thế kỉ VII TCN.
- Tên nước: Văn Lang.
- Vị vua đầu tiên: vua Hùng.
- Kinh đô: Bạch Hạc (Phú Thọ).
Từ nguồn gốc xa xưa cho đến thế kỉ X, lịch sử nước ta trải qua 4 giai đoạn:
- GĐ 1: Thời nguyên thủy.
- GĐ 2: Thời đại dựng nước Văn Lang - Âu Lạc.
- GĐ 3: Thời kì Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập.
- GĐ 4: Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X.
Từ năm 179TCN cho đến TK X, nước ta chịu sự đô hộ của phương Bắc (Trung Quốc bây giờ). Vì vậy, trong sử cũ, người ta gọi giai đoạn từ năm 179TCN đến thế kỷ X là thời kỳ Bắc thuộc.
Chính quyền đô hộ Hán nắm độc quyền về sắt và đặt các chức quan để kiểm soát gắt gao việc khai thác, chế tạo và mua bán đồ sắt.
Mặc dù bị hạn chế, nhưng nghề rèn sắt ở Giao Châu vẫn phát triển.
Trong các di chỉ, mộ cổ thuộc thế kỉ I - VI, chúng ta đã tìm được nhiều đồ sắt. Về công cụ, có rìu, mai, cuốc, dao... ; về vũ khí, có kiếm, giáo, kích, lao...; về dụng cụ, có nồi gang, chân đèn và rất nhiều đinh sắt... Đến thế kỉ III, nhân dân ven biển đã dùng lưới sắt để khai thác san hô, ở miền Nam, người dân còn biết bịt cựa gà chọi bằng sắt.
Từ thế kỉ I, ở Giao Châu, việc cày, bừa do trâu, bò kéo đã phổ biến.
Theo Giao Châu kí, ở huyện Phong Khê (miền Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Đông Anh - Hà Nội) có đê phòng lụt. sử cũ cũng nói Giao Châu có nhiều kênh, ngòi. Người ta đã biết trồng hai vụ lúa trong một năm : vụ chiêm và vụ mùa, lúa rất tốt.
Nông thôn Giao Châu có đủ loại cây trồng và chăn nuôi rất phong phú. Sách Nam phương thảo mộc trạng nói đến một kĩ thuật trồng cam rất đặc biệt của người châu Giao : để chống sâu bọ châm đục thân cây cam, người ta nuôi loại kiến vàng, cho làm tổ ngay trên cành cam... ; đó là kĩ thuật “dùng côn trùng diệt côn trùng”.
Bên cạnh nghề rèn sắt, nghề gốm cổ truyền cũng rất phát triển. Người ta đã biết tráng men và vẽ trang trí trên đồ gốm rồi mới đem nung, sản phẩm đồ gốm ngày càng phong phú về chủng loại, như nồi, vò, bình, bát, đĩa, ấm chén, gạch, ngói..., đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và xây dựng nhà cửa.
Cùng với các loại vải bông, vải gai, vải tơ..., người ta còn dùng tơ tre, tơ chuối để dệt thành vải. vải tơ chuối là đặc sản của miền đất Âu Lạc cũ, các nhà sử học gọi là “vải Giao Chỉ".
Các sản phẩm nông nghiệp và hàng thủ công không bị sung làm đồ cống nạp mà được đem trao đổi ở các chợ làng, ở những nơi tập trung đông dân cư như Luy Láu, Long Biên..., có cả người Trung Quốc, Gia-va, Ấn Độ... đến trao đổi buôn bán. Chính quyền đô hộ giữ độc quyền ngoại thương.
Vì vào năm 179 TCN, An Dương Vương để mất nước, rơi vào tay Triệu Đà, sau hơn 1000 năm đấu tranh không ngừng nghỉ, cuối cùng chiến tháng trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo đã chấm dứt hơn 1000 năm bắc thuộc, mở mang một thời kì mới cho nước VN
Trả lời:
+ Thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc :
• Các triều đại phong kiến Trung Quốc : Triệu, Hán, Ngô, Lương, Tuỳ và Đường thống trị nước ta từ năm 179 TCN đến năm 905. sử cũ gọi thời kì này là thời Bắc thuộc.
• Nhân dân ta kiên trì đấu tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa : cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 ; cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, cuộc khởi nghĩa Lý Bí năm 542 - 602, cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan đầu thế kỉ XIII, cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng trong khoảng những năm 776 - 791, cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ năm 905, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, kết thúc thời Bắc thuộc, mở ra thời kì mới, thời kì độc lập dân tộc.
Thời Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm (207 TCN - 906) trải qua các triều đại Triệu, Hán (Đông Hán và Tây Hán), Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường kế tiếp nhau xâm chiếm và đô hộ, biến Âu Lạc thành quận, huyện, đồng hóa dân tộc, bóc lột tàn tệ nhân dân.
Bắc thuộc lần 1 : Sau khi chiếm được nước Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập đất Âu Lạc vào Nam Việt và chia Âu Lạc ra làm 2 quận là Giao Chỉ (bao gồm vùng Bắc Bộ ngày nay) và Cửu Chân (gồm vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Trong hơn 60 năm thống trị, nhà Triệu vẫn duy trì những luật lệ và phong tục tập quán cũ của thời Âu Lạc.Đến năm 111 TCN, sau khi Lưu Bang thay thế nhà Tần lập ra nhà Hán ở Trung Quốc đã điều hơn 10 vạn quân xuống chinh phục Nam Việt. Sau một thời gian chống cự, nhà Triệu đã đầu hàng. Nhân thời cơ đó, thủ lĩnh đất Tây Vu ( Tây Vu Vương ) đã nổi dậy khởi nghĩa với ý đồ khôi phục lại nền độc lập cho Âu Lạc. Nhưng vì lực lượng yếu nên cuộc khởi nghĩa thất bại, đất Âu Lạc từ đó bị nhà Hán đô hộ (từ 111 TCN đến 220 sau công nguyên) gồm hai thời kì Tây Hán (111 TCN-8TCN) và Đông Hán (23 - 220).Chiếm xong Nam Việt, nhà Tây Hán tiến hành chia vùng đất mới chiếm ra làm 9 quận là Đạm Nhĩ, Chu Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (đều thuộc Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc ngày nay), Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam), Cửu Chân (vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh ), Nhật Nam (vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam).Năm 106 TCN, nhà Tây Hán còn đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận ở lục địa và đặt trị sở ở quận Giao Chỉ là quận lớn nhất và quan trọng nhất. Đứng đầu châu Giao Chỉ là chức thứ sử, đóng trị sở tại Mê Linh (nay là làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Mỗi quận có một viên thái thú và một viên đô uý (cai quản việc dân sự và quân sự), bên dưới quận là huyện. Đến năm 25 sau công nguyên, nhà Đông Hán tái lập ở Trung Quốc sau một thời gian bị Vương Mãng cướp ngôi (năm 8 - 24).
Bắc thuộc lần 2 : Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa thống trị lần thứ hai (43 - 543) được chia thành các giai đoạn đấu tranh sau:. Nhà Đông Hán mất, nước Trung Hoa phân làm ba nước Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Việt Nam thời bấy giờ thuộc Đông Ngô.Đông Ngô cai trị đất nước bằng một chính sách vô cùng tàn bạo. Vì thế, năm 248, bà Triệ Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa, tấn công quân Ngô phá tan các thành ấp của giặc.Chỉ trong vòng sáu tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết đất Giao Châu. Vua Ngô phái Lục Dận đàn áp cuộc khởi nghĩa. Bà Triệu vẫn kiên cường chiến đấu và đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).Năm 263, Lã Hưng - một tướng của Đông Ngô nổi dậy diệt thái thú Giao Châu. Từ năm 280 Tây Tấn diệt hẳn Đông Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn. Nhà Tấn diệt Ngụy, Thục, Ngô rồi phong cho anh em thân thích ra trị các phương, nhưng các thân Vương cứ đánh giết lẫn nhau làm cho nhà Tấn ngày càng suy yếu.Năm 420, Lưu Du cướp ngôi nhà Đông Tấn lập ra nhà Tống ở phía nam. Trung Quốc lúc đó phân chia ra thành Nam, Bắc triều. Nhân dân trong nước bị sự đô hộ vô cùng tàn bạo của nhà Lương (Nam triều), do thứ sử Tiêu Tự cai trị. Đến năm 542, Lý Bôn lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa , đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm thành Long Biên lập nên nhà nước độc lập đầu tiên - nhà nước Vạn Xuân.
Bắc thuộc lần 3 : Sau khi đánh chiếm được Giao Châu vào năm 602, ba năm sau nhà Tuỳ đánh chiếm luôn Lâm Ấp và bắt đầu tổ chức lại việc cai trị.Năm 617, nhà Tùy bị lật đổ, nhà Đường thay thế, đất Giao Châu lại chịu dưới ách thống trị của nhà Đường. Tuy nhiên, thế lực nhà Đường chưa đủ mạnh, vùng đất Giao Châu bị áp dụng chế độ cai trị như một đô hộ phủ, có tên là Giao Châu đô hộ phủ, sau này đổi tên thành An Nam đô hộ phủ, có phạm vi lãnh thổ bao gồm miền Bắc Việt Nam, từ Bắc Bộ đến Đèo Ngang và một phần đất phía Nam Trung Quốc (Tỉnh Quảng Đông - Quảng Tây). Trong thời gian khỏang ba thế kỷ, Giao Châu lệ thuộc nhà Tùy - Đường, thì nhiều quốc gia láng giềng trở nên lớn mạnh. Vương triều Cailendra ở Nam Dương rất cường thịnh. Vua Chân Lạp là Jayavarman II (802 - 854) đã dựng nên vương quốc Ăngkor rộng lớn trên bán đảo Đông Dương vào đầu thế kỷ thứ IX cũng phát triển hùng mạnh. Phía Nam sông Gianh, nước Chiêm thành kế thừa di sản của Lâm Ấp vào đầu thế kỷ thứ IX cũng phát triển hùng mạnh. Ở phía Tây Bắc của Vân Nam (Trung Quốc), nước Nam Chiếu được thành lập, chống lại nhà Đường, tồn tại được hơn một thế kỷ.An Nam đô hộ phủ, từ thế kỷ VII - VIII về sau liên tiếp là vùng đất tranh giành giữa các quốc gia nói trên với nhà Đường. Về phía nội tình bên trong, dân chúng An Nam đô hộ phủ nhiều lần nổi dậy đánh phá châu huyện, chống sự hà khắc của chính quyền đô hộ. Trong đó, có những cuộc giành chiến thắng như các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên - Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766), Dương Thanh (819)
Từ nguồn gốc xa xưa cho đến thế kỉ X, lịch sử nước ta trải qua 4 giai đoạn:
- GĐ 1: Thời nguyên thủy.
- GĐ 2: Thời đại dựng nước Văn Lang - Âu Lạc.
- GĐ 3: Thời kì Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập.
- GĐ 4: Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X.
aaaaaaaaaaaaaaaaaaa