K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 11 2021

tham khảo nhé

 

Ở Mĩ latinh, phong trào cách mạng lên cao ở nhiều nước. Trong những năm 1917 - 1921, ở Achentina đã xuất hiện cao trào đấu tranh của công nhân (riêng năm 1919 đã diễn ra 367 cuộc bãi công với 306.000 người tham gia).

Trong những năm 1920 - 1921, tại một số thành phố và các bang ở Mêhicô đã ra đời các Xô viết. Ở Braxin, làn sóng bãi công tiếp diễn trong suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có một số nhượng bộ (như thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lương cho công nhân một số ngành; thi hành chế độ tiền lương mới cho công nhân, thi hành chế độ trợ cấp cho công nhân bị tai nạn lao động).

Ở các nước Mĩ latinh khác, chính đảng vô sản và các tổ chức công đoàn lần lượt được thành lập nhằm lãnh đạo phong trào công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc Mĩ và các lực lượng phản động trong nước.

Nhìn chung, cao trào cách mạng giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ ở khắp các châu lục, tiến công vào chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nước, đồng thời góp phần bảo vệ cách mạng Nga và nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Đặc điểm của cao trào cách mạng này là giai cấp vô sản non trẻ đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và ở nhiều nước, họ đã đóng vai trò lãnh đạo các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Trong điều kiện đó, các Đảng Cộng sản lần lượt được thành lập ở nhiều nước: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Aicập (1921), Đảng Cộng sản Braxin (1922), Đảng Cộng sản Cuba (1925)…

30 tháng 12 2020

Châu Phi:

Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, p,trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra hết sức sôi nổi:

- Bắc Phi là nới phong trào nổ ra sớm nhất, điển hình là cuộc binh biến ở Ai Cập dẫn tới sự thành lập cộng hòa Ai Cập( 18-6-1953)

- Tiếp đó là thắng lợi của nhân dân An-giê-ri năm 1962: đánh bại thực dân Pháp giành độc lập dân tộc.

- năm 1960: 17 nc Châu Phi tuyên bố giành độc lập.

=> Từ đó hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc lần lượt tan rã, các nc châu Phi giành lại đc độc lập và chủ quyền.

 

27 tháng 11 2021

Dựa vào kẻ thù và nhiệm vụ đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi với khu vực Mĩ Latinh để so sánh.
Giải chi tiết:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân ở châu Á và châu Phi đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân cũ để giành độc lập.
- Khác với châu Á và châu Phi, nhiều nước Mĩ Latinh sớm giành được độc lập nhưng lại bị lệ thuộc vào Mĩ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế về kinh tế, quân sự, Mĩ đã tìm cách biến Mĩ Latinh thành khu vực “sân sau” của mình và xây dựng chế độ độc tài thân Mĩ => nhân dân Mĩ Latinh phải đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân Mĩ – một hình thức của chủ nghĩa thực dân mới để giành độc lập.

27 tháng 11 2021

ghi tham khảo vô dùm mk cía ! 

25 tháng 10 2023

I. Cao trào giải phóng dân tộc từ 1918 đến 1923

Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của chế độ: phong kiến, tư bản thực dân, nhất là quan những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc.

1. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á

Châu Á là vùng đông dân cư nhất, bao gồm những nước có lãnh thổ lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, các nước châu Á đã trở thành những nước thuộc địa, nửa thuộc địa và là thị trường chủ yếu của các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan…

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước châu Á lên cao và lan rộng hơn cả so với châu Phi và Mĩ la tinh.

Ở Trung Quốc, ngày 4-5-1919, phong trào cách mạng rộng lớn chống chủ nghĩa đế quốc đã bùng nổ, mở đầu cho cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm sau đó. Phong trào Ngũ Tứ đã thúc đẩy phong trào công nhân Trung Quốc nhanh chóng kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921.

Năm 1921, cuộc cách mạng nhân dân Mông Cổ thắng lợi. Đến năm 1924, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á được thành lập. Với sự ủng hộ và giúp đỡ của giai cấp vô sản Nga, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ đã đứng vững và từng bước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm 1918 - 1922, nhân dânẤn Độđã tăng cường đấu tranh chống thực dân Anh. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân với hàng chục vạn người tham gia, kéo dài hàng tháng, đã lan lộng khắp cả nước. Đồng thời, phong trào nổi dậy của nông dân cũng liên tiếp bùng nổ chống lại bọn địa chủ phong kiến và đế quốc Anh.

Ở Thổ Nhĩ Kì, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1919 - 1922 (do giai cấp tư sản lãnh đạo) đã kết thúc thắng lợi. Ngày 29-10-1923, chế độ cộng hòa được thiết lập Thổ Nhĩ Kì có điều kiện để trở thành một nước tư sản có chủ quyền và bước vào thời kì phát triển mới.

Năm 1919, nhân dân Ápganixtan thu được thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận quyền độc lập chính trị của mình. Cũng vào năm 1919, nhân dân Triều Tiên đã nổi dây khởi nghĩa chống đế quốc Nhật Bản.

Những năm sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi và Mĩ la tinh cũng có những bước phát triển mới.

2. Phong trào cách mạng ở châu Phi

Ở châu Phi, phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất là ởAiCập.Năm 1918, những tiểu tổ xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Cairô, Alêchxanđri, Poócxait, rồi hợp nhất thành Đảng Xã hội và từ năm 1921 mang tên Đảng Cộng sản Ai Cập. Trong những năm 1918 - 1923, đã diễn ra cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ai Cập… bằng con đường hòa bình hợp pháp'', do giai cấp tư sản dân tộc khởi xướng. Bị thực dân Anh đàn áp, phong trào vẫn tiếp tục dâng cao và chuyển biến thành khởi nghĩa vũ trang trong nhiều thành thị. Công nhân xe điện, đường sắt ở Cairô, công nhân khuân vác ở Alêchxanđri, các viên chức cơ quan nhà nước đã bãi công.

Trong nhiều làng xã, tỉnh thành, các ủy ban cách mạng (mang tên gọi Xô viết) được thành lập. Nhân dân Ai Cập đã anh dũng đấu tranh nhưng do thiếu sự lãnh đao thống nhất nên đến đầu tháng 4-1919, thực dân Anh đã đàn áp được khởi nghĩa vũ trang.

Cuối năm 1921, cuộc khởi nghĩa mới lại bùng nổ. Thực dân Anh buộc phải đi đến những nhượng bộ bề ngoài. Tháng 2-1922, Chính phủ Anh phải tuyên bố hủy bỏ chế độ bảo hộ và trao trả “độc lập” cho Ai Cập. Xuntan Atmét Phuát đổi danh hiệu là vua Phuát I; tháng 5-1923, hiến pháp mới được ban hành. Tuy vậy, trên thực tế ảnh hưởng của đế quốc Anh vẫn giữ nguyên. Quân đội Anh vẫn đóng ở Ai Cập, thực dân Anh còn nắm quyền nội trị, ngoại giao và đô hộ trực tiếp vùng Xuđăng

Ở Tuynidi, phong trào diễn ra sôi nổi trong những năm 1920 – 1922.

Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Đồng thời giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Xaalibi, cũng dấy lên phong trào đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Tuynidi. Thực dân Pháp chẳng những bác bỏ các yêu sách đó mà còn đàn áp phong trào. Lập tức làn sóng biểu tình phản đối và bãi công sôi sục diễn ra khắp cả nước. Phong trào đấu tranh chính trị lên tới đỉnh cao vào tháng 4-1922, đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện những cải cách hiến pháp. Tháng 6-1922, chính phủ Pháp buộc phải ban hành sắc lệnh về cải cách hiến pháp ở Tuynidi. Phong trào đấu tranh vũ trang bùng lên mạnh mẽ ở nhiều vùng Marốc (thuộc Pháp) và đặc biệt Marốc thuộc Tây Ban Nha. Giữa năm 1921, các bộ lạc Rớp (thuộc Tây Ban Nha), dưới sự lãnh đạo của Ápđen Kêrim, đã đánh bại đạo quân của tướng Xinvéttôrơ gồm 12.000 binh lính với 120 khẩu đại bác. Ngày 19-9-1921, trong đại hội các bộ lạc, dưới sư lãnh đạo của Ápđen Kêrim, Cộng hòa Ríp độc lập đã ra đời và tồn tại được đến năm 1926.

Ở châu Phi nhiệt đới cũng bùng nổ phong trào đấu tranh chống đế quốc. Phong trào bãi công rộng lớn ở Nạm Phi (diễn ra trong những năm 1918 - 1920, Đảng Cộng sản Nam Phi ra đời năm 1921, Đảng Đai hội quốc dân Tây Phi thành lập năm 1920 và Đại hội toàn Phi họp năm 1919 là những sự kiện quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi. Đặc biệt, Đại hội toàn Phi lần thứ I họp năm 1919 ở Pari (có 17 Đại biểu tham dự) đã để ra nghị quyết về quyền của người Phi được tham gia cai quản đất nước, bắt đầu từ các cơ quan địa phương và dần dần đi đến những “nhiệm vụ chính quyền cấp cao để trong tương lai châu Phi phải do người Phi cai quản”.

3. Phong trào cách mạng ở Mĩ latinh

Ở Mĩ latinh, phong trào cách mạng lên cao ở nhiều nước. Trong những năm 1917 - 1921, ở Achentina đã xuất hiện cao trào đấu tranh của công nhân (riêng năm 1919 đã diễn ra 367 cuộc bãi công với 306.000 người tham gia).

Trong những năm 1920 - 1921, tại một số thành phố và các bang ở Mêhicô đã ra đời các Xô viết. Ở Braxin, làn sóng bãi công tiếp diễn trong suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có một số nhượng bộ (như thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lương cho công nhân một số ngành; thi hành chế độ tiền lương mới cho công nhân, thi hành chế độ trợ cấp cho công nhân bị tai nạn lao động).

Ở các nước Mĩ latinh khác, chính đảng vô sản và các tổ chức công đoàn lần lượt được thành lập nhằm lãnh đạo phong trào công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc Mĩ và các lực lượng phản động trong nước.

Nhìn chung, cao trào cách mạng giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ ở khắp các châu lục, tiến công vào chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nước, đồng thời góp phần bảo vệ cách mạng Nga và nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Đặc điểm của cao trào cách mạng này là giai cấp vô sản non trẻ đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và ở nhiều nước, họ đã đóng vai trò lãnh đạo các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Trong điều kiện đó, các Đảng Cộng sản lần lượt được thành lập ở nhiều nước: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Aicập (1921), Đảng Cộng sản Braxin (1922), Đảng Cộng sản Cuba (1925)…

II. Phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924-1929

Một đặc điểm nổi bật của phong trào cách mạng 1924 - 1929 là phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa xuống thấp nhưng phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp diễn mạnh mẽ ở hầu khắp các nước châu Á, châu Phi và Mĩ latinh.

1. Ở châu Á, phong trào phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở Trung Quốc. Những năm 1924 - 1927 là thời kì bùng nổ cuộc đấu tranh quan trọng - cuộc nội chiến cách mang lần thứ nhất.

Ở Ấn Độ, phong trào bãi công của công nhân tiếp diễn trong suốt những năm 1924 - 1927. Phong trào nông dân chống thuế, chống địa chủ tăng tô tức diễn ra mạnh mẽ vào năm 1927. Đảng Quốc đại, sau một thời gian suy giảm lực lượng, bắt đầu tăng cường hoạt động mở rộng đội ngũ.

Ở các nước Đông Nam Á, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi. Đặc biệt ở Indônêxia, Đảng Cộng sản tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi thiết thân. Năm 1925, phong trào bãi công của công nhân dâng cao. Năm 1926, nhân dân Bativia (tức Giacacta ngày nay) khởi nghĩa vũ trang. Năm 1927, khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ở đảo Xumatơra.

Ở Việt Nam, trong những năm 20 của thế kỉ này, thông qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người cộng sản Việt Nam đầu tiên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân ta. Phong trào công nhân phát triển từ tự phát sang tự giác và tiến tới việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương).

2. Ở Trung Đông và Bắc Phi, phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi sục, nhất là ở Xiri - Libăng và Marốc đã bùng nổ những cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt. Dưới sự thống trị nặng nề của thực dân Pháp, nhân dân Xiri trong những năm 1920 đến 1924 đã sáu lần vùng dậy khởi nghĩa: ở Khauran (8-1920), ở Bắc Xiri (1921 - 1925), ở vùng Giơben Đruydơ (1922- 1923) ở vùng Bêcaa (1924). Tháng 7-1925, lại một lần nữa nhân dân Xiri vùng dậy đấu tranh ở vùng Giơben Đruydơ. Cuộc khởi nghĩa do Xuntan Atratxơ lãnh đạo đã nhanh chóng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Vào đầu tháng 8-1925, quân khởi nghĩa đã giáng cho quân Pháp những đòn nặng nề. Cuộc chiến tranh kéo dài đến năm 1927, thực dân Pháp đã huy động lực lượng đến đàn áp, nên cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi thất bại.

Tại Marốc thuộc Pháp, trong năm 1924 - 1926 đã diễn ra cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp rất quyết liệt. Nghĩa quân Ríp được nhân dân Marốc ủng hộ đã tiến công quân Pháp và thu đươc nhiều thắng lợi. Quân đội Pháp và quân đội Tây Ban Nha phải hợp sức tấn công mới chiến thắng được quân đội Ríp vào năm 1926. Cộng hòa Ríp bị thủ tiêu, phong trào đấu tranh của các bộ lạc Ríp thất bại.

Cuộc đấu tranh của nhân dân Xiri những năm 1925 - 1927 và cuộc đấu tranh vũ trang của Cộng hòa Ríp (Marốc thuộc Pháp) trong những năm 1925 – 1926, chống đế quốc Pháp đã nói lên tinh thần quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức và đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Arập.

3. Ở Mĩ latinh, trong thời gian này phong trào dân tộc dân chủ đã diễn ra ở Haiti, Vênêxuêla, Côlômbia, và đăc biệt là ở Braxin và Nicaragoa.

Ở Braxin, chính sách phản động của chính phủ Bécnađét đã gây nên sự bất bình sâu sắc trong các lực lượng dân tộc dân chủ. Tháng 7-1924, một trại lính ở trung tâm công nghiệp Xan Paolô đã khởi nghĩa. Đến mùa thu năm ấy, làn sóng khởi nghĩa lan rộng đến lực lượng hải quân. Ở Tây – Nam Braxin, quân đội dưới quyền chỉ huy của đại úy Luít Cáclốt Pơretxtét đã khởi nghĩa. Cuôc đấu tranh lan rộng khắp vùng Tây-Nam. Nghĩa quân đề ra những yêu sách: tự do ngôn luận, tư do báo chí, thả tù chính trị, thực hiện bỏ phiếu kín, giải quyết nạn thất nghiệp, chia ruộng đất cho nông dân ...và đòi chính phủ Bécnađét phải thực hiện những yêu sách nói trên.

Tháng 10 – 1924, nghĩa quân của Pơretxtét bắt liên lạc được với nghĩa quân ở Xan Paolô. Nhưng cũng từ đây, chính phủ Bécnađét bắt đầu tấn công lại nghĩa quân.

Trong thời gian 2 năm (từ tháng l0-1924 đến tháng 2-1927), nghĩa quân đã vượt qua 26.000 km), đánh thắng nhiều trận. Cuối cùng, do bị hao tổn lực lượng, nghĩa quân buộc phải rút qua biên giới Bôlivia để củng cố lực lượng. Cuộc khởi nghĩa vì mục tiêu dân tộc - dân chủ này đã thức tỉnh ý thức cách mạng của nhân dân bị áp bức ở Braxin.

Ở Nicaragoa, từ năm 1924 đế quốc Mĩ thiết lập chính quyền tay sai Chamôrô và tiến hành can thiệp vũ trang vào Nicaragoa nhằm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở nước này và uy hiếp phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và tay sai của nhân dân Mĩ latinh nói chung.

Các tầng lóp nhân dân đông đảo - nông dân, công nhân nông nghiệp, lao động thành thị - ở Nicaragoa đã tham gia cuộc đấu tranh dân chủ chống chính phủ phản động Chamôrô, nổi tiếng nhất là các đơn vị du kích dưới sự lãnh đạo của Angutxtô Xêxa Xanđinô bị ám sát. Tháng 4-1927, nghĩa quân uy hiếp thủ đô Managoa. Đế quốc Mĩ đã đưa quân đội vào đối phó và tìm cách phá hoại các lực lượng dân tộc từ bên trong. Những người tư sản tự do do bị mua chuộc đã thỏa hiệp với bọn đế quốc. Chỉ có một bộ phân cách mạng kiên quyết, đứng đầu là Xanđinô, tiếp tục đấu tranh vũ trang. Cuối cùng, Xanđinô bị ám sát, phong trào dân tộc dân chủ ở Nicaragoa bị đàn áp.

Nhìn chung, cao trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924 – 1929 là một trong những nhân tố quan trọng làm cho sự ổn định của thế giới tư bản chỉ là tạm thời. Phong trào cách mạng lên cao và bị đàn áp đẫm máu, nhưng biểu hiện ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, dân chủ của các dân tộc bị áp bức.

III. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào mặt trận nhân dân chống phát xít trong những năm 1929 - 1939.

Những năm 1929 - 1939 là thời kì khủng hoảng kinh tế sâu sắc và toàn diện của thế giới tư bản. Khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và chuẩn bị gây chiến tranh thế giới.

Vào giữa những năm 30, ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân yêu nước nhằm chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh xâm lược.

l. Ở châu Á, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh chống nền thống trị phản động của chính quyền Tưởng Giới Thạch và cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược, bảo vệ đất nước. Ở Ấn Độ, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh tiếp tục phát triển rộng khắp trong những năm 1929 – 1932. Sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ vào tháng 11-1939 đã đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ.

Trên bán đảo Triều Tiên, nhân dân tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng…tiến hành cuộc đấu tranh chống Nhật.

Ở Đông Nam Á, đầu những năm 30, một số Đảng Cộng sản được thành lập, mở ra một thời kì mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Riêng ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930 (do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức) bị thất bại đã chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc, đồng thời cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1930- 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh, đã mở ra thời kì cách mạng Việt Nam đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và chính Đảng mácxít - lêninnít của nó - Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Philíppin, cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách bóc lột của địa chủ phong kiến gắn liền với cuộc đấu tranh chống đế quốc bùng nổ năm 1931 đã buộc Mĩ phải trao trả quyền tự trị cho nước này. Ở Miến Điện, phong trào khởi nghĩa nông dân được diễn ra từ cuối năm 1930 đến mùa xuân năm 1932. Đầu năm 1933, ở Inđônêxia đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của thủy binh trên tàu chiến Đơ Giơven Pơrôvinxien.

2. Ở châu Phi, phong trào cách mạng lên cao ở Ai Cập trong những năm khủng hoảng kinh tế. Tháng 10-1930, thực dân Anh đề ra hiến pháp nhằm tập trung toàn bộ quyền hành vào tay nhà vua thân Anh. Tháng 5-1931, cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình quần chúng bất bình sâu sắc.

Trong cả nước đã bùng nổ cuộc bãi công chính trị, đặc biệt mạnh mẽ ở Cairô và Poóc Xít, quần chúng đã xung đột vũ trang với bọn cảnh sát và quân đội.

Ở Êtiôpi, cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa của nhân dân chống phát xít Italia xâm lược có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành phong trào chống đế quốc trên toàn lục địa Phi.

Trong các nước châu Phi nhiệt đới ở phía nam sa mạc Xahara, vào cuối những năm 20 đến những năm 39 của thế kỉ XX đã diễn ra sự tập hợp dần dần các lực lượng yêu nước và cách mạng trong cuộc đấu tranh giành được độc lập dân tộc, giành quyền sống. Mầm mống của giai cấp công nhân được phát sinh và phát triển trong nhiều nước. Quá trình hình thành giai cấp tư sản dân tộc cũng bắt đầu trong một số nước.

Liên bang Nam Phi, một thuộc địa di dân của đế quốc Anh, nước phát triển nhất về mặt kinh tế, đã có ảnh hưởng hai mặt đối với tình hình chính trị của châu Phi nhiệt đới. Bọn thống trị ở đây là người da trắng đã thi hành chế độ phân biệt chủng tộc dã man, tàn bạo nhất. Phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Nam Phi đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng châu Phi.

3. Ở Mĩ latinh, trong những năm 1929 - 1933, khủng hoảng kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào các nước trong khu vực này. Hàng hóa xuất khẩu truyền thống của các nước Mĩ latinh xuống giá nghiêm trọng. Nạn thất nghiệp, đói khổ lan rộng trong quần chúng nhân dân. Trong nhiều nước, cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ và yêu nước được đẩy mạnh.

Ở Pêru, chính phủ thân Mĩ của nhà độc tài Lêghi bị lật đổ năm 1930, Chính phủ Xanset Xerô được các độc quyền Anh ủng hộ đã lên thay. Dưới danh nghĩa tiến hành cuộc đấu tranh chống ''chủ nghĩa đế quốc bên ngoài'', Xerô tiến hành cuộc đàn áp các lực lượng tiến bộ trong nước. Năm 1932, Xerô gây chiến tranh với Côlômbia và được Mĩ ủng hộ. Cuộc chiến tranh kéo dài gần 2 năm đã gây tổn hại cho cả 2 nước.

Mùa hè năm 1931, các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Chilê đẫ lật đổ chính phủ độc tài thân Mĩ của Ibaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp, chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mĩ ở trong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp và khắc phục tình trạng sinh hoạt đắt đỏ. Đầu tháng 9-1931, binh sĩ trong hạm đội Chilê khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã bùng nổ ở những thành phố hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa bị thất bại vì quân đội phản động tập trung sức mạnh đàn áp. Tháng 6-1932, chính phủ mới đứng đầu là Gơrôvơ được thành lập Chilê tuyên bố là nước ''Cộng hòa xã hội chủ nghĩa'', chứng tỏ mong muốn của đông đảo nhân dân Chilê về một xã hội công bằng. Nhưng các lực lượng phản động trong nước và bọn đế quốc bên ngoài đã lật đổ chính phủ Gơrôvơ. Mùa thu năm 1932, lãnh tụ Đảng Tự do là Ácturô Alêchxanđri lên làm tổng thống. Chính sách phản nhân dân của chính phủ Alêchxanđri đã gây nên làn sóng phản đối không chỉ trong quần chúng lao động, mà cả trong tầng lớp tiểu tư sản và tư sản hạng trung.

Ở Cuba, năm 1933 cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ – Machađô phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Mĩ đưa Xétpêđét, nguyên đại sứ Cuba ở Mĩ, lên thay. Phong trào đấu tranh vẫn tiếp diễn, bao gồm các tầng lớp nhân dân đông đảo, kể cả giai cấp tư sản dân tộc. Binh lính yêu nước cũng vùng dậy đấu tranh. Đầu tháng 9-1933, đã diễn ra một cuộc đảo chính tiến bộ ở Cuba. Xétpêđét bi lật đổ, chính phủ mới do giáo sư Gơrây Xan Mactin đứng đầu được thành lập. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Cuba, một chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc lên cầm quyền và đã thi hành một số biện pháp dân chủ, như chế đó ngày làm 8 giờ, nâng cao tiền lương công nhân, hạn chế hoạt động của một số công ti độc quyền Mĩ…Đầu năm 1934, lực lượng thân Mĩ - Batixta gây áp lực buộc chính phủ Xan Mactin từ chức và chiếm đoạt mọi quyền hành ở Cuba. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Cuba vẫn tiếp diễn trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai.

Trong những năm 1935 - 1939, ở nhiều nước Mĩ latinh. Mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân trong nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức tiến bộ và một bộ phận giai cấp tư sản dân tộc.

Ở Mêhicô, những năm 1934 - 1939 chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc đứng đầu là Laxarô Cácđênát - lãnh tụ cánh tả của giai cấp tư sản dân tộc, được sự giúp đỡ của Đảng Cách mạng Mêhicô (đảng của giai cấp tư sản dân tộc) đã thi hành một số biện pháp tiến bộ có lợi cho nhân dân, hạn chế ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1935, phong trào quần chúng nhân dân rộng lớn mà lực lượng cơ bản là công nhân đã đập tan âm mưu đảo chính của lực lượng phản động trong nước. Năm 1936, Tổng liên đoàn lao động Mêhicô ra đời, tập hợp hầu hết các công đoàn trong nước để lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trước cao trào đấu tranh của quần chúng công nông, chính phủ Cácđênát đã tuyên bố thi hành ''luật cải cách ruộng đất''. Ngày 23-6-1937, luật quốc hữu hóa các đường sắt chủ yếu được thực hiện, đưa 700 km đường sắt vào tay Nhà nước. Tháng 3-1938, Cácđênát tuyên bố quốc hữu hóa 17 công ty dầu lửa nước ngoài. Các nước tư bản Anh - Mĩ tìm cách phá hoại, bao vây kinh tế Mêhicô. Trước áp lực đó, chính phủ Cácđênát ngày càng thiên hữu và cuối cùng đã bị đổ. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn tiếp tục phát triển. Tháng 9-1938, theo sáng kiến của các công đoàn Mêhicô, Tổng liên đoàn Mĩ latinh được thành lập ở Mêhicô (bao gồm tổ chức công nhân trong nhiều nước Mĩ latinh) đòi độc lập dân tôc, thủ tiêu tàn tích phong kiến, xây dựng một chế độ xã hội dựa trên ''sự tôn trọng độc lập kinh tế và chính trị của mỗi nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới''.

Ở Chilê, Mặt trân nhân dân ra đời năm 1936 trong cao trào đấu tranh chống chính phủ Alêchxanđri. Mặt trận bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, những người cấp tiến và những người dân chủ, với yêu sách chủ yếu là tự do, dân chủ, độc lập dân tộc thực sự, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Tháng 12-1938, chính phủ Mặt trận nhân dân do Péđơrô Cácđa, lãnh tụ Đảng Cấp tiến, làm tổng thống đã được thành lập. Chilê là nước đầu tiên ở Tây bán cầu có chính phủ của Mặt trận nhân dân. Chính phủ Cácđa đã thực hiện một số biện pháp tiến bộ trong nước và giữ cho Chilê khỏi rơi vào tay lực lượng phát xít.

Ở Áchentina, cuộc đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn: giới cầm quyền có những liên hệ chặt chẽ với nước Đức phát xít, các tổ chức phát xít hoạt động mạnh, Đảng Cộng sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mặc dù vậy, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đòi dân chủ và cải thiện đời sống. Tháng 3-1936, Tổng liên đoàn lao động đã thống nhất với Liên đoàn các thủy thủ và Liên hiệp các nhân viên điện thoại. Mặt trận nhân dân ra đời trên cơ sở lực lượng của giai cấp công nhân được tập hợp lại. Trong cuộc bầu cử Quốc hội, Mặt trận nhân dân đã giành được ít nhiều thắng lợi.

Cuộc đấu tranh xây dựng Mặt trận nhân dân ở Braxin đã diễn ra dưới nhiều hình thức đấu tranh quyết liệt chống chế độ độc tài Vácgát. Năm 1934, Vácgát ban hành đạo luật an ninh nhằm thủ tiêu những dấu vết cuối cùng của nền dân chủ. Bọn phát xít Braxin đã tăng cường hoạt động khủng bố nhân dân.

Trong những năm 1934 - 1935, giai cấp công nhân Braxin đã đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh chống phát xít và 1,5 triệu công nhân đã tham gia các cuộc bãi công. Phong trào đấu tranh tự phát của nông dân cũng phát triển. Sự bất mãn lan rộng trong cả tầng lớp tiểu tư sản thành thị.

Tháng 3-1935 theo sáng kiến của Đảng Cộng sản, Đồng minh giải phóng dân tộc được thành lập dưới sự lãnh đạo của Cáclốt Luít Pơrettéc, bao gồm công nhân, nông dân, quân nhân, nhiều nhóm tư sản dân tộc. Đồng minh tập hợp được hơn 1,5 triệu người và trở thành bức tường ngăn chặn chủ nghĩa phát xít. Ngày 5-7-1935, khẩu hiệu ''Tất cả chính quyền về tay Đồng minh'' được nêu ra. Chính phủ Vácgat ra lệnh nghiêm cấm hoạt động của Đồng minh nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục dâng cao và chuyển sang đấu tranh vũ trang. Chính quyền dân tộc cách mạng được thiết lập ở Natalia, rồi ở bang Riu Gơranđiđu Noócđi. Ngày 27-11, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Riô đê Gianêrô. Tháng 11-1937, trước ngày bầu cả tổng thống Vácgat đã làm cuộc đảo chính, giải tán Quốc hội, đặt các chính đảng ra ngoài vòng pháp luật, tuyên bố Braxin là “Nhà nước nghiệp đoàn”.

Nhìn chung, phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1929-1939 đã có những bước tiến so với mấy năm trước, với sự tham gia của đông đảo quần chúng công nông và các tầng lớp trung gian ở thành thị. Sự tăng cường vai trò của giai cấp công nhân là một đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kỳ này. Các Đảng Cộng sản trẻ tuổi phương Đông đã chiến đấu như những chiến sĩ kiên cường vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vào giữa những năm 30 đã diễn ra phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước trong Mặt trận thống nhất chống đế quốc thực dân phản động, chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình và dân chủ.

IV. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)

Cùng với chiến thắng của các lực lượng đồng minh dân chủ, đứng đầu là Liên Xô, đối với chủ nghĩa phát xít thế giới và trong những điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nước, nhân dân các dân tộc thuộc địa, đặc biệt là ở châu Á, sau những năm tháng đấu tranh gian khổ, đã giành được độc lập ở những mức độ khác nhau.

Ở Trung Quốc, cuộc chiến tranh chống Nhật kéo dài 8 năm liền (1937 - 1945) với những hi sinh to lớn của nhân dân Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi và góp phần cống hiến không nhỏ vào cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân các nước trên thế giới.

Trên bán đảo Triều Tiên, cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật của các lực lượng yêu nước đã làm suy yếu lực lương phát xít Nhật chiếm đóng, góp phần dẫn tới thất bại của phát xít Nhật trên bán đảo Triều Tiên. Quân du kích Triều Tiên, dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành, đã hoạt động mạnh mẽ ở nhiều vùng trong nước, sát cánh với quân giải phóng Trung Quốc.

Ở các nước Đông Nam Á, đã diễn ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ chống lại sự xâm lược của phát xít Nhật và chống lại ''trật tự mới'' của phát xít Nhật (thiết lập từ năm 1940) nhằm thủ tiêu hoàn toàn nền độc lập của các dân tộc. Trong cuộc đấu tranh này, các lực lượng yêu nước chống phát xít đã tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất để hòa nhập vào phong trào dân chủ chống phát xít trên thế giới. Đồng thời, các lực lượng vũ trang cũng được thành lập ở những thời điểm khác nhau và góp phần vào việc giải phóng đất nước, tiêu diệt phát xít Nhật.

Sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, thời điểm phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh là thời cơ ''có một không hai'', tạo ra tình thế hết sức thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á. Chớp lấy thời cơ đó, các dân tộc ở Đông Nam Á đã vùng dậy tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước. Tháng 8-1945, cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi. Ở Lào, ngày 23-8 nhân dân Lào nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 12-10-1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Inđônêxia, ngay sau khi Nhật đầu hàng, ngày 17-8-1945 Tuyên ngôn độc lập được công bố, nước Cộng hòa Inđônêxia thành lập.

V. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á (từ 1918 đến 1945)

1. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc từ năm 1918 đến năm 1945

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc đều tăng cường chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa để giải quyết những khó khăn trong nước. Tình hình đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nước Đông Nam Á. Đời sống nhân dân ngày càng cùng cực, mâu thuẫn dân tộc với đế quốc càng thêm sâu sắc.

Bắt đầu từ những năm 20, trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á đã xuất hiện và phát triển một xu hướng mới: xu hướng vô sản. Giai cấp vô sản trẻ tuổi ở Đông Nam Á bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, mở ra triển vọng mới cho phong trào cách mạng ở Đông Nam Á: từ giải phóng dán tộc tiến lên giải phóng giai cấp. Điều đó không chỉ phản ánh ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười Nga đối với các dân tộc ở Đông Nam Á, mà còn cho thấy những biến đổi lớn lao đã diễn ra trong từng nước. Đó là sự hình thành và phát triển nền công nghiệp dân tộc, cùng với quá trình đó là sự trưởng thành của giai cấp công nhân cả về số lượng và ý thức giai cấp. Đồng thời quá trình bần cùng hoá nông dân cũng diễn ra nhanh chóng. Tất cả những yếu tố đó đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng mới, một xu hướng mới trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á - xu hướng vô sản. Như vậy, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc Đông Nam Á đã tồn tại và phát triển song song hai xu hướng tư sản và vô sản. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện hàng loạt các Đảng Cộng sản trong khu vực, mở đầu là sự thành lập Đảng Cộng sản Inđônêxia (5-1920). Đảng Cộng sản Inđônêxia đã nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị quan trọng và là đại diện chân chính cho những nguyện vọng của nhân Inđônêxia.

Tiếp theo Inđônêxia, năm 1930 ở Đông Nam Á đã xuất hiện Đảng Cộng sản ở Việt Nam (tháng 2), ở Mã Lai và Xiêm (tháng 4), ở Philippin (tháng 11).

Ở Miến Điện, Đảng Công sản được thành lập năm 1939. Sự thành lập các Đảng Cộng sản là kết quả của quá trình phát triển phong trào yêu nước kết hợp với phong trào công nhân, tiếp nhận và vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của các nước Đông Nam Á. Đó cũng là hậu quả của cuộc khủng hoàng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 1929 làm cho mâu thuẫn vốn có giữa các dân tộc với chủ nghĩa đế quốc càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động cùng những người yêu nước đã hướng về Đảng Cộng sản với nguyện vọng thiết tha là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động một số nước đã vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Nổi bật là cuộc khởi nghĩa ở Xumatơra 1926 - 1927 và sự thành lập chính quyền Xô viết ở Nghệ-Tĩnh.

Mặc dù bị thất bại nhưng những cuộc nổi dậy đó chính là sự xuất hiện trên vũ đài chính trị những cuộc đấu tranh yêu nước mang màu sắc vô sản, diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, giai cấp công nhân dù mới ra đời cũng đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.

Trong những năm 20 và 30, phong trào dân tộc tư sản đã có những bước tiến rõ rệt so với những năm đầu thế kỉ. Nếu như trước đây, những hoạt động chính trị chỉ nhằm mục đích ''khai trí để chấn hưng quốc gia'' thì đến nay mục tiêu giành độc lập được đề xuất rõ ràng: đòi quyền tự chủ về chính trị, quyền tự do trong kinh doanh, quyền dùng tiếng ''mẹ đẻ'' trong giáo dục…Nếu như trước đây mới xuất hiện các học hội hay nhóm phái mà vai trò quan trọng thuộc về những người cấp tiến trong sĩ phu phong kiến thì đến giai đoạn này đã hình thành các chính đảng có tôn chỉ mục đích rõ ràng và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn.

Lực lượng đóng vai trò nổi bật trong phong trào dân tộc tư sản thời kì này là tầng lớp trí thức. Họ là học sinh, sinh viên, các nhà kĩ thuật, viên chức tiếp thu ảnh hưởng văn hóa nước ngoài, từ tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp đến chế độ cộng hòa của Hợp chủng quốc Hoa Kì, từ “chủnghĩa Tam dân”của Tôn Trung Sơn đến học thuyết ''bất bạo động'' của Găngđi. Họ trở thành bộ phân cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản, là ngòi nổ trong những cuộc đấu tranh lớn ở Đông Nam Á.

Những tổ chức sinh viên ở Miến Điện đã dấy lên những cuộc đấu tranh đòi cải cách quy chế đại học, đòi tự trị, dẫn đến ''phong trào Thakin'' (có nghĩa là những người chủ đất nước) trong những năm 30. Tổ chức đại hội toàn Mã Lai từ đầu thế kỉ đòi cải cách Hồi giáo và dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, phát triển thành phong trào đấu tranh chống thực dân Anh đòi tư trị. Ở Inđônêxia, năm 1927 Đảng Dân tộc do Xucácnô đứng đầu được thành lập. Trải qua nhiều năm tháng, đến cuối năm 1939, Xucácnô đã tổ chức Đại hội nhân dân Inđônêxia bao gồm 90 đảng phái và tổ chức chính trị biểu thị sự thống nhất dân tộc, thông qua nghị quyết về ngôn ngữ (Bahasa Inđônêxia), về quốc kì (đỏ-trắng), về quốc ca (Inđônêxia Raya).

Ý chí về cuộc đấu tranh cho một quốc gia Inđônêxia thống nhất và độc lập đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh trong toàn dân ở giai đoạn tiếp theo.

Hai phong trào tư sản và vô sản cùng tồn tại ở Đông Nam Á có nhiều điểm khác biệt về ý thức hệ, về mục tiêu cuối cùng. Nhưng đứng trước mục tiêu chung là độc lập dân tộc nên cả hai phong trào đã tồn tại song song, có những lúc kết hợp với nhau trong một chừng mực nhất định. Bởi lẽ đối với nhân dân Đông Nam Á, kẻ thù lớn nhất là chủ nghĩa đế quốc, không một lực lượng cứu nước nào có thể đứng riêng lẻ hoặc chống đối lẫn nhau. Điều đó đã tạo nên những tiền đề khách quan cho sự thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn sau.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã đưa lịch sử Đông Nam Á bước sang giai đoạn mới.

2. Phong trào dầu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Năm 1940, phát xít Nhật tràn vào Đông Nam Á và cũng từ đây cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á chĩa mũi nhọn vào chủ nghĩa phát xít Nhật.

Do cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật đã trở thành nội dung chính của phong trào giải phóng dân tộc lúc này, đồng thời để hòa nhập với phong trào dân chủ chống chủ nghĩa phát xít trên thế giới, hai xu hướng tư sản và vô sản đã từng tồn tại song song trong giai đoạn trước nay đã tụ hội theo một hướng chung là cứu nước, mặc dù điều đó chỉ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và ở một chừng mực nhất định.

Vì vậy, nét mới của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong giai đoạn này là sự thành lập ở hầu hết các nước Đông Nam Á Mặt trận dân tộc thống nhất và lực lượng vũ trang cách mạng. Mở đầu là Việt Nam độc lập đồng minh (5-1941) và các đội Cứu quốc quân, sau là Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Trong những năm 1942 - 1944, lần lượt xuất hiện Đồng minh dân chủ Philippin với đội quân Húcbalaháp, Liên hiệp nhân dân Mã Lai chống Nhật cùng các đơn vị Quân đội nhân dân, Liên minh tự do nhân dân chống phát xít cùng Quân đội quốc gia Miến Điện…

Thất bại của chủ nghĩa phát xít trên thế giới, thời điểm quân phát phiệt Nhật Bản đầu hàng đồng minh là thời cơ ''có một không hai'', tạo ra tình thế mới hết sức thuận lợi cho phong trào giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á. Chớp lấy thời cơ, nhân dân các nước Đông Nam Á đã nhất tề vùng dậy tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước.

Trong hoàn cảnh chung đó, cách mạng Việt Nam có những nét riêng tiến đến thắng lợi vào tháng Tám năm 1945. Trong nửa đầu những năm 40, cuộc đấu tranh giành quyền lực diễn ra rất quyết liệt giữa các lực lượng chính trị ở trong và ngoài nước. Nhưng Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản đã nắm trong tay ngọn cờ dân tộc, có uy tín lớn trong nhân dân, trải qua nhiều thử thách của lịch sử, xác định đúng kẻ thù của cách mạng. Trong khi tranh thủ mọi khả năng để tập hợp lực lượng, Đảng ta đã tự giải quyết lấy nhiệm vụ cách mạng của mình, giữ lấy địa vị người chủ đất nước để đón tiếp phe Đồng minh. Chủ trương sáng suốt đó đã đưa những người lãnh đạo cách mạng nắm đúng thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa, tuyên bố độc lập và thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ trước khi quân Anh và quân Tưởng vào nước ta giải giáp quân Nhật. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam là trường hợp điển hình của phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á và trên thế giới.

Ở Inđônêxia, ngay sau khi Nhật đầu hàng, ngày 17-8-1945, đại diện các đảng phái và đoàn thể yêu nước đã soạn thảo và kí vào Tuyên ngôn độc lập. Trước cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng ở thủ đô Giacácta, Xucácnô đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Cộng hoà Inđônêxia. Ngày 4-9-1945, chính phủ Inđônêxia được thành lập, đứng đầu là Xucácnô. Hiến pháp mới của Inđônêxia được thông qua, mở ra thời kì mới trong lịch sử Inđônêxia.

Ở Lào, sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 23-8-1945, nhân dân Lào đã nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi.

Ngày 12-10-1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền, Chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng tuyên bố trước thế giới nền độc lập của Lào.

Tuy nhiên, để bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Inđônêxia còn phải trải qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nhiều năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Ở các nước khác, các lực lượng yêu nước và quân đội vũ trang đã đấu tranh anh dũng chống phát xít Nhật, giải phóng phần lớn đất đai trong nước. Tuy vậy, thời cơ giành độc lập ở các nước này đã bị bỏ lỡ, quân Mĩ trở lại Philippin, quân Anh trở lại Miến Điện, Mã Lai, Xingapo và Brunây. Đến đây đã khép lại thời kì đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á và mở ra một thời kì mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực này.

25 tháng 10 2023

Sao Duy không gửi cả SGK vào lun =))

31 tháng 10 2021
Chiến tranh ngô tấn ai thắng
25 tháng 10 2023

Những nét chính trong phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài A-pac-thai của nhân dân Nam Phi:
-Phong trào đấu trang A-pac-thai là một phong trào đấu tranh ở Nam Phi được lập ra vào những năm 1950, tập trung vào việc chống lại chính quyền áp bức và phân biệt chủng tộc của chế độ A-pac-thai ở Nam Phi. A-pac-thai là một hệ thống chính trị và xã hội phân biệt chủng tộc, đòi hỏi sự tách rời giữa người da trắng và người da đen trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

- Mục tiêu chính của phong trào A-pac-thai là chấm dứt A-pac-thai, giành quyền công bằng và tự do cho người da đen tại Nam Phi, và thúc đẩy sự hiểu biết và hợp tác quốc tế trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc.

- Phong trào A-pac-thai đã tạo liên kết với các phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc và độc tài trên khắp thế giới. Điều này giúp đẩy mạnh áp lực quốc tế đối với chính quyền Nam Phi và đã góp phần vào việc cô lập quốc tế của chế độ A-pac-thai.
Cuộc đấu tranh chống apartheid tại Nam Phi được coi là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vì nó không chỉ tập trung vào việc chấm dứt phân biệt chủng tộc, mà còn hướng đến mục tiêu giành lại quyền tự do và công bằng cho tất cả các tầng lớp và sắc tộc trong xã hội Nam Phi. Nó đại diện cho sự cống hiến và dũng cảm của nhân dân Nam Phi trong cuộc đấu tranh cho tự do và công bằng.

28 tháng 2 2021

Từ 1939 đến 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đại thể đã trải qua 5 giai đoạn:

1. Giai đoạn thứ nhất: từ 1-9-1939 (ngày Đức tấn công Ba Lan, mở đầu đại chiến) đến 22-6-1941 (ngày phát xít Đức tấn công Liền Xô).

2. Giai đoạn thứ hai: từ 22-6-1941 đến 19-11-1942 (ngày mở đầu cuộc phản công ở Xtalingrat).

3. Giai đoạn thứ ba: từ 19-11-1942 đến 24-12-1943 (ngày mở đầu cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô trên khắp các mặt trận).

4. Giai đoạn thứ tư: từ 24-12-1943 đến 9-5-1945 (ngày phát xít Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu).

5. Giai đoạn thứ năm:từ 9-5-1945 đến 14-8-1945 (ngày Phát xít Nhật đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt).

I. Giai đoạn thứ nhất (1-9-1939 đến 22-6-1941):

l. Đức tấn công Ba Lan và bước khởi đầu của chiến tranh thế giới (9-1939 đến 4 - 1940).

Ngày 1-9-1939, không tuyên chiến, quân Đức tràn vào Ba Lan. Để tấn công Ba Lan, Đức đã có sự chuẩn bị từ lâu và đưa vào Ba Lan một lực lượng to lớn; 70 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn cơ giới, với hơn 3000 máy bay). Trong khi đó, Ba Lan thiếu chuẩn bị về tinh thần và vật chất. Một bộ phận lớn quân đội Ba Lan lại tập trung ở biên giới phía Đông để chống Liên Xô, trong khi đó Đức có ưu thế tuyệt đối về quân số và trang bị. Chúng lại lợi dụng yếu tố bất ngờ và thực hiện chiến thuật ''đánh chớp nhoáng'', dùng xe tăng và máy bay thọc sâu, bao vây, khiến cho Ba Lan không chống đỡ nổi.

Từ ngày 12 đến 16-9, vòng vây của Đức xiết chặt chung quanh Vacxava và quân Đức tiếp tục tiến về phía Đông chiếm Bret-Litôp, Lubơlin và Lvốp. Bọn phản động cầm quyền Ba Lan không đủ sức chỉ đạo về quốc phòng. Sau những đòn thất bại đầu tiên, chúng đều hèn nhát bỏ trốn sang Rumani. Nhưng nhân dân Ba Lan không chịu hạ khí giới. Những đảng viên cộng sản từ trong tù hay trong bí mật ra lãnh đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Vacxava. Họ chiến đấu rất anh dũng, đập tan1 sư đoàn thiết giáp Đức tiến vào thành phố, nhưng không thể nào cứu vãn nổi. Vacxava tan hoang trong khói lửa cuối cùng đã bị thất thủ. Nước Ba Lan bị Đức thôn tính. Trong khi đó, một cuộc “chiến tranh kì quặc” đã diễn ra ở phía Tây nước Đức.

Liên quân Pháp, Anh dàn trận ở Bắc Pháp dọc theo biên giới Đức, nhưng không tấn công Đức và cũng không có một hành động quân sự nào để đỡ đòn cho Ba Lan. Hiện tượng ''tuyên'' mà không ''chiến'' (được các nhà báo Mĩ gọi là ''cuộc chiến tranh kì quặc'', người Pháp gọi là cuộc chiến tranh “buồn cười”, còn người Đức gọi là chiến tranh ''ngồi'') kéo dài suốt trong 8 tháng (từ 9-1939 đến 4-1940). Trong suốt thời gian này, quân đội hai bên hầu như chỉ ngồi trong chiến lũy nhìn sang nhau, thỉnh thoảng quân Pháp mở những cuộc tiến công nhỏ có tính chất “tượng trưng” rồi lại trở về vị trí cũ. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn còn ảo tưởng về một sự thỏa hiệp với Hítle. Đồng thời cũng do Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamơlanh, đã quyết định áp dụng chiến thuật phòng ngự, mong dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh bại quân địch.

Mùa xuân năm 1940, Quốc hội Pháp và Anh đã nhận ra sai lầm trong đường lối mềm yếu này. Họ quyết định đưa ra những nhân vật cứng rắn lên cầm đầu chính phủ: Râynô lập chính phủ mới ở Pháp (tháng 3) và Sơcsin trở thành Thủ tướng Anh (tháng 5), nhưng đó là sự thay đổi quá muộn.

Cùng thời gian này, vào ngày 17-9-1939, theo sự thỏa thuận với Đức (qua ''Biên bản mật'' ngày 24-9), quân đội Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan và tiến hành cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây để thu hồi lãnh thổ của đế quốc Nga bị mất vào những năm 1918 – 1920. Miền Đông Ba Lan vốn là một phần lãnh thổ của Tây Ucraina và Tây Bêlarút bị trao cho Ba Lan năm 1920, nay sáp nhập trở lại với hai nước Cộng hòa Xô viết này trong Liên bang Xô viết (11-1939).

Ngày 18-9, Liên Xô lên án ba nước Ban Tích là không giữ vai trò trung lập. Dưới sức ép về quân sự, lãnh đạo ba nước Ban Tích phải lần lượt đến Mátxcơva và kí những hiệp ước không xâm lược với Liên Xô: Extônia, ngày 28-9, Látvia ngày 5-10, Litva ngày 10 -10. Đó là những hiệp ước tương trợ Extônia và Litva nhượng cho Liên Xô những căn cứ hải quân và không quân. Cả ba nước chấp nhận cho Liên Xô quyền đóng quân trên đất của họ. Thành phố Vilna và khu vực Vilna được trả lại cho Litva (27-10). Tháng 6-1940, quân Đội Liên Xô tiến vào ba nước Ban Tích, gây áp lực lật đổ các chính phủ tư sản ở đây. Các chính phủ mới được thành lập dưới sự kiểm soát của Dekanôzôp ở Litva, của Vichinsk ở Latvia và của Jđanôp ở Extônia. Ngày 14-7, bầu cử được tiến hành. Các Quốc hội mới kêu gọi sáp nhập các nước Ban Tích vào Liên Xô. Tháng 8-1940, Xô viết tối cao Liên Xô chấp nhận ba nước Ban Tích vào thành phần của Liên bang Xô viết.

Ngày 28-11, Liên Xô hủy bỏ hiệp ước không xâm lược năm 1932 và ngày hôm sau Liên Xô cắt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Chiến tranh Xô - Phần bùng nổ và diễn ra ác liệt trong suốt mùa đông băng giá (11-1939 đến 3-1940). Kết quả theo hiệp ước Matxcơva ngày 12-3-1940, Phần Lan phải nhường vĩnh viễn eo đất Carêli để Liên Xô thành lâp nước Cộng hòa Xô viết Carêli của mình và biên giới Phần Lan - Liên Xô được lùi xa Lêningrát thêm 150 km nữa. Ngoài ra, Phần Lan còn phải cho Liên Xô thu cảng Hănggô trong 30 năm với số tiền 8 triệu mác Phần Lan.

Betxarabia và Bắc Bucôvina là vùng tranh chấp lâu dài giữa Nga với Rumani mà Rumani chiếm được năm 1918. Xtalin gửi tối hậu thư cho Rumani đòi:

- Vùng Betxarabia mà Nga chưa bao giờ chịu mất, phải trả về cho Nga.

- Sáp nhập vùng Bắc Bucôvina mà dân cư ở đó về mặt lịch sử và về mặt ngôn ngữ gắn bó với nước Cộng hòa Xô viết Ucraina.

Trước tình hình đó, chính phủ Rumani kêu gọi sự giúp đỡ của Đức và Italia, nhưng hai nước từ chối và Rumani đành nhượng bộ. Thế là Betxarabia và Bắc Bucôvina trở thành một bộ phận thuộc nước Cộng hòa Xô viết Mônđavia của Liên Xô (8-1940).

Tính chung, Liên Xô đã lập thêm 5 nước Cộng hòa Xô viết Liên bang, mở rộng lãnh thổ 2 nước Cộng hòa Xô viết, đưa tổng số nước Cộng hòa của Liên Xô lên tới 16. Số dân mới gia nhập Liên Xô là 23 triệu người (13 triệu ở Ba Lan cũ, 10 triệu ở Rumani và trong các nước Ban Tích) Biên giới phía tây của Liên Xô được đẩy lùi thêm từ 200 - 300km.

2. Đức đánh chiếm các nước Bắc Âu và Tây Âu

Cuộc ''Chiến tranh kì quặc'' đã giúp cho nước Đức phát xít mạnh lên. Lợi dụng thời gian hưu chiến suốt mùa đông 1939 – 1940, Đức phát triển bộ binh lên tới 136 sư đoàn, xe tăng - 10 sư đoàn, máy bay - 4 vạn chiếc. Thực lực của Đức khi đó tăng lên chừng gấp đôi thời kì trước khi đánh Ba Lan. Trong khi đó thì các chính phủ Anh, Pháp do theo đuổi những âm mưu chống Liên Xô đã không nghĩ đến củng cố sự phòng của đất nước. Trong những tháng ấy, sản xuất vật liệu chiến tranh của Anh và Pháp không tăng; một phần vũ khí và quân trang làm ra lại gửi sang Phần Lan.

Lập trường mù quáng chống Liên Xô làm cho giới thống trị các nước Anh và Pháp trở nên thiển cận. Mặc dầu nguy cơ tấn công của Đức vào các nước phương Tây ngày càng rõ và họ biết điều đó nhưng giới thống trị Anh, Pháp vẫn không thay đổi chính sách; họ vẫn tiếp tục hi vọng rằng “Hítle sẽ quyết định hướng đội quân về phía Đông chống Nga”. Tướng Đờ Gôn đã viết trong hồi kí: ''Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn là Hítle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga – hoặc giúp Phần Lan, hoặc ném bom Bacu hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn cách làm sao để thắng đế chế Đức''.

Trong khi đó thì Đức đang chuẩn bị tỉ mỉ kế hoạch đánh các nước Tây Âu. Gián điệp của Đức len lỏi khắp các nước mà chúng sẽ xâm chiếm.

Ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua và chính phủ không kháng cự, ra lệnh cho quân đội hạ vũ khí. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất dũng cảm. Chiến sự đã diễn ra ác liệt ở nhiều nơi. Nhưng bọn tay sai của Hítle ở Na Uy đã phản bội Tổ quốc. Na uy bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật ra biển.

Ngày 10-5, vào 5 giờ 30 sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và Pháp. Mặt trận chính phía Tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực lượng hai bên không chênh lệch nhau lắm. Đức ném vào cuộc tấn công 136 sư đoàn (kẻ cả dự bị). Quân Đồng minh có 130 sư đoàn (91 sư đoàn Pháp, Anh - 10 sư đoàn, Bỉ 22, Hà Lan – 9 và Ba Lan – 1). Nhưng Đức có nhiều máy bay và xe tăng hơn. Kế hoạch tác chiến của Đức lại dựa trên sự tấn công bất ngờ, sự thiếu chuẩn bị về tâm lý của đối phương, và chiến thuật tốc chiến tốc thắng, dùng máy bay và xe tăng tiến nhanh, thọc sâu, chia cắt và bao vây đối phương.

Ngày 10-5, quân của Phôn Bốc vượt qua sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các sân bay, các đầu mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.

Ngày 15-5, quân đội Hà Lan phải đầu hàng, Chính phủ Hà Lan chạy sang Luân Đôn. Ngày 27-5, đến lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.

Trong khi đó, quân của Phôn Runxtét vượt qua Lucxembua, đánh bại đạo quân thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng phòng tuyến của Pháp trên một khu vực rộng 90km giữa Xơđăng và Namuya. Phòng tuyến Maginô (Ligue Maginot) mà Pháp vẫn thường khoe khoang đã trở nên vô tác dụng. Những binh đoàn xe tăng của tướng Klaixtơ (Kleist) đang tiến vế hướng Pari.

Ngày 5-6, quân Đức tiến về phía Pari như báo tãp. Giai cấp thống trị Pháp hèn nhát đã nghĩ đến chuyện đầu hàng. Một số tên phản bội và chủ trương đầu hàng đã được bổ sung vào chính phủ (như Thống chế Pêtanh). Ngày 10-6, Chính phủ bỏ Pari chạy về Tua.

Cùng ngày đó, Italia tuyên chiến với Anh và Pháp và tấn công vào Đông Nam nước Pháp. Từ lâu, Italia vẫn dòm ngó một phần lãnh thổ Pháp và một số thuộc địa của Pháp. Khi thấy Pháp đang nguy ngập, sắp thua, ltalia vội vàng nhẩy vào để ''dính máu ăn phần''. Sự tham chiến của Italia cũng làm cho tình hình của Pháp thêm nghiêm trọng.

Trong thời gian này, ở Tua đã diễn ra cuộc thương lượng giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Anh và Anh muốn biến Pháp thành một tỉnh của Anh. Ngày 16-6, Sớcsin đưa ra đề nghị về việc kí kết ''liên minh không thể hủy bỏ'' giữa Anh và Pháp, theo đó thì Anh và Pháp sẽ trở thành một quốc gia thống nhất với một hiến pháp thống nhất và những cơ quan chính và những cơ quan chính quyền trung ương thống nhất. Chính phủ Pháp chia làm 2 nhóm: một nhóm do Râynô cầm đầu sẵn sàng giao nước Pháp cho đế quốc Anh, một nhóm do Pêtanh cầm đầu muốn đầu hàng phát xít Đức và cho rằng ''thà làm một tỉnh quốc xã còn hơn là một xứ tự trị của Anh''. Không có một nhân vật nào trong Chính phủ chấp nhận một chương trình đấu tranh cho tự do và độc lập của nước Pháp như đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp.

Đa số thành viên trong chính phủ Pháp chấp nhận sự đầu hàng. Ngày 17-6, Râynô từ chức, Pêtanh lên cầm đầu chính phủ xin hàng Đức, Italia với những điều kiện nhục nhã. Theo hiệp định đình chiến kí ở Rơtôngđơ (Rethondes), Đức có tất cả quyền hành của một cường quốc chiếm đóng: 3/4 nước Pháp bị chiếm đóng, trong đó có Pari, tất cả vùng công nghiệp của đất nước (nơi sản xuất 98% gang và thép); vùng Andát và Loren sáp nhập vào Đức, nước Pháp bị tước vũ trang chỉ để lại một ít cho Chính phủ Pháp duy trì trật tự) và phải nuôi quân đội chiếm đóng, Chính phủ Pháp đóng ở Visi chỉ là bù nhìn tay sai của bọn phát xít chiếm đóng. Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự do Pêtanh cầm đầu, tự phong làm Quốc trưởng. Nhân dân Pháp bị đói, rét trong khi hàng trăm chuyến tầu chở đầy những của cải của Pháp đưa sang Đức.

Nguyên nhân tấn thảm kịch của nước Pháp là do sự phản bội của giai cấp tư sản thống trị ở Pháp. Nhân dân Pháp không được động viên bảo vệ Tổ quốc, trái lại còn bị đàn áp, cấm đoán.

Nhưng nhân dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã phản đối đường lối đầu hàng của giai cấp tư sản, mở rộng cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Đức và Đảng Cộng sản Pháp đứng ra tổ chức lực lượng kháng chiến bên trong nước Pháp.

Trong khi đó, Đờ Gôn (lúc này đang công cán ở Anh), đã không chịu đầu hàng và tích cực tập hợp một số người Pháp ở hải ngoại. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn thành lập ''Chính phủ Pháp tự do'', mưu dựa vào lực lượng Anh, Mĩ đã giải phóng đất nước.

3. Đức tấn công Anh

Tháng 7-1940, Hítle đề ra kế hoạch ''Sư tử biển'' nhằm đổ bộ lên Anh. Kế hoạnh ''Sư tử biển'' nhằm hai mục đích: dọanước Anh để từ đó tạo điều kiện cần thiết cho việc thỏa hiệp với Anh; che đây việc bị mất tập trung quân chuẩn bị tấn công Liên Xô, đánh lạc hướng dư luận thế giới.

Tháng 8-1940, cuộc tấn công bằng không quân của Đức vào nước Anh được bắt đầu với tên gọi ''Cuộc đấu tranh giành nước Anh''. Trong những trận không chiến ác liệt, ưu thế thuộc về Đức vì Đức có nhiều máy bay hơn. Tuy nhiên, Anh cũng có nhiều lợi thế. Hồi đó ở bờ Biển Đông, Anh đã có mạng lưới rađa, tuy chưa hoàn thiện lắm, nhưng đã giúp cho quân Anh sớm phát hiện được những máy bay địch đang đến gần bờ biển Anh. Không quân Anh chiến đấu trên mảnh đất mình nên cũng có lợi thế. Cả hai bên đều thiệt hại nặng nề. Đức chuyển sang ném bom ban đêm. Thủ đô Luân Đôn bị hàng vạn tấn bom tàn phá dữ dội. Ngoài ra, Đức phong tỏa chặt chẽ hải phận bằng ''Chiến tranh tầu ngầm'', đánh đắm đất nhiều tầu chiến của Anh. Tình hình của Anh càng thêm nghiêm trọng.

Anh cầu cứu Mĩ. Mĩ định lợi dụng cơn hoạn nạn của Anh, thông qua “sự giúp đỡ” để biến đế quốc Anh thành bạn đồng minh đàn em của mình.

Lợi dụng tỉnh hình thiếu vũ khí của Anh sau vụ Đoongkéc, Mĩ hứa sẽ giúp vũ khí cho Anh nhưng với những điều kiện nặng nề: Anh phải giao cho Mĩ những căn cứ rất quan trọng về chiến lược ở Đại Tây Dương cùng những phát minh khoa học kĩ thuật mới nhất của Anh (như rađa, những công trình nghiên cứu về bom nguyên tử của các nhà bác học Anh, Pháp v. v…).

Để đổi lại, Mĩ đã giao cho Anh gần l triệu khẩu súng trường thời kì những năm 1917 – 1918 với 50 chiếc khu trục hạm rất cũ kĩ.

Như vậy, trong khi ủng hộ Anh, Mĩ vẫn coi Anh là địch thủ đế quốc chủ nghĩa và cố làm suy yếu Anh đến mức tối đa. Đó là tính chất của sự hợp tác Anh – Mĩ.

4. Cuộc xâm lược phát xít ở Bancăng và Trung Cận Đông

Ngày 27-9-1940, Đức Italia và Nhật đã kí hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này, như lời thú nhận của Thủ tướng Nhật Cônôiê trong tập hồi kí của ông, ''trước hết nhằm chống Liên Xô''. Nhưng nó không những chỉ chống Liên Xô mà còn chống cả Anh, Mĩ. Hiệp ước đề ra không úp mở việc phân chia thế giới: Đức, Italia ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông.

Đức đã lợi dụng những mâu thuẫn giữa các nước Bancăng để chiếm đóng các nước Bancăng (như để lôi kéo Hung về phía mình, Đức đã lợi dụng sự bất mãn của Hung). Ở Hội nghị Viên tháng 8-1940, Đức và Italia đã đứng ra với danh nghĩa ''trọng tài'', quyết định cắt một vùng đất lớn của Rumani là Tơranxinvania giao cho Hung và hứa với Rumani sẽ ''đền bù'' bằng đất đai của Liên Xô. Đức lại giúp bọn tay sai ở Rumani làm chính biến, đưa những phần tử chống Liên Xô lên nắm chính quyền, do tướng Antônexcô cầm đầu. Với sự thỏa thuận của Antônexcô, ngày 7-10-1940, quân đội Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hunggari, Rumani và Xlôvakia đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin (ll-1940).

Tháng 3-1941, chính phủ phát xít Bungari đã phản bội nhân dân khi tham gia hiệp ước Béclin và để cho quân đội Đức vào chiếm đóng.

Thế là cuối năm 1940, đầu năm 1941, các nước Xlôvakia, Hunggari, Rumani, Bungari đã trở thành ''chư hầu'' của Đức và không tốn một viên đạn, quân đội Đức đã chiếm đóng tất cả những căn cứ quan trọng trên các nước đó, lập thành một vành đai bao vây miền Tây Liên Xô và bao vây miền Đông Bắc Hi Lạp và Nam Tư.

Đối với hai nước Hi Lạp và Nam Tư, bọn phát xít Đức - Italia khuất phục bằng vũ lực. Phát xít Italia cũng muốn đi trước Đức trong việc xâm chiếm vùng Bancăng.

Ngày 28-10-1940, phát xít Italia bất ngờ tấn công Hi Lạp từ phía Anbani, không báo trước cho Đức và cũng không được sự thỏa thuận của Đức, 20 vạn quân Italia hùng hổ kéo vào Hi Lạp, dự định chiếm thủ đô Aten sau mấy tiếng đồng hồ. Nhưng một tuần lễ sau, quân Italla vẫn không đi quá l0 cây số. Đầu tháng, quân Hi Lạp có quân Anh trợ lực bắt đầu phản công và quét sạch quân Italia ra khỏi Hi Lạp. Hi Lạp còn chiếm luôn cả Anbani thuộc Italia.

Lúc này Italia cũng đang thua liên tiếp ở châu Phi. Khi chiến tranh ở châu Phi mới bắt đầu, Italia đã lợi dụng tình hình khó khăn và mắc kẹt của Anh, Pháp ở Tây Âu để xâm chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp ở châu Phi. Quân Italia đã chiếm Xômali thuộc Anh, Kênia, Xuđăng và vượt biên giới Libi tiến vào đất Ai Cập. Nhưng, ngày 9-10-1940, quân Anh đột ngột chuyển sang tấn công ở Bắc Phi, đẩy lùi quân Italia, và đến hè 1941, đã chiếm được tất cả các thuộc địa của Italia ở Đông Phi, kể cả Êtiôpi mà Italia mới chiếm trước chiến tranh.

Trong suốt thời gian đó, trước tình hình khó khăn của Italia, Đức vẫn không giúp đỡ gì cho bạn đồng minh. Đức muốn trừng phạt Italia về tội “không nghe lời”, làm cho Italia suy yếu để phải phục tùng mình.

Đức cũng muốn khuất phục Chính phủ Nam Tư như kiểu khuất phục các nước Bancăng khác. Nhưng nhân dân Nam Tư đã nổi dậy khởi nghĩa, lập chính phủ mới, kí hiệp ước thân thiện và không xâm phạm với Liên Xô ngày 5-4-1941. Trước tình hình đó. Hítle phải ra lệnh hoãn lui việc thực hiến kế hoạch Bacbarôxa và quyết định đè bẹp Nam Tư và Hi Lạp trước.

Đêm 6-4-1941, không quân Đức dội bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính phủ Nam Tư không dám chống cự, bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày đó, quân Đức cũng mở cuộc tấn công vào Hi Lạp. Quân đội Hi Lạp phải đầu hang, Quân đội Anh cũng bị đánh bật xuống biển (một vụ Đoong Kéc thứ hai).

Nam Tư và Hi Lạp bị chiếm đóng. Đức lập nên ở đó những chính phủ bù nhìn và cắt một phần quan trọng đất đai của hai nước này chia cho các nước chư hầu khác như Italia, Hunggari, Bungari.

Việc phát xít Đức chiếm bán đảo Bancăng là một biện pháp chiến lược quân sự quan trọng để tấn công Liên Xô. Nhưng hi vọng của bọn Hítle đã hoàn toàn không thực hiện được. Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là ở Nam Tư và Hi Lạp, đã biến cuộc chiếm đóng các nước Bancăng thành một cuộc chiến tranh dằng dai và đẫm máu. Cuộc chiến tranh này đã cản trở bọn Hítle tận dụng tiềm lực của các nước này trong cuộc chiến tranh chống Liên Xô .

II. Giai đoạn thứ hai (22-6-1941 đến 19-11-1942): Phe phát xít tấn công Liên Xô, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn thế giới.

l. Đức tấn công Liên Xô

Ngày 22-6-1941, vào 3 giờ 30 sáng, không tuyên chiến và cũng không đưa ra một yêu sách gì, phát xít Đức bất ngờ mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô từ Biển Đen đến biển Ban Tích, chà đạp thô bạo lên hiệp ước không xâm phạm Xô -Đức kí kết năm 1939.

Cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô là bộ phận quan trọng nhất trong kế hoạch chinh phục toàn cầu của đế quốc Đức, đã được Hítle và giai cấp tư sản Đức chuẩn bị kĩ lưỡng từ lâu. Sau khi thôn tính xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Đánh chiếm hầu như toàn bộ châu Âu tư bản chủ nghĩa (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh), phát xít Đức không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể, cho nên binh lính Đức rất kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình là ''đạo quân bách chiến, bách thắng''. Chính trong bối cảnh thuận lợi này, phát xít Đức đã tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm độc chiếm kho tài nguyên vô tận của Liên Xô và tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, kẻ thù số l của chủ nghĩa phát xít.

Theo “kế hoạch Bacbarôxa”, được thảo ra từ thang 6-1940, Hítle đã huy động 190 sư đoàn với 5,5 triệu quân, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo, 4.950 máy bay…chia ra làm 3 đạo quân, đặt dưới quyền tổng chỉ huy của thống chế của thống chế Phôn Bơraosit (Von Brauchitsch), tiến đánh theo 3 hướng chiến lược:

- Đạo phía Bắc do thống chế Phôn Lép (Von Leeb) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, tiến từ Đông Phổ qua Ban Tích hướng tới Lêningrát.

- Đạo trung tâm do thống chế Phôn Bốc (Von Bock) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn quân bộ binh, 2 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, từ Đông Bắc Vacxava hướng tới Minxcơ, Xmôlenxcơ và Mátxcơva.

- Đạo phía Nam do Chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von Rundsted) chỉ huy gồm 3 tập đoàn quân bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội từ vùng Liubơlin hướng tới Gitơmia, Kiép, sau đó tới Đônbát.

Chiến lược của Đức dựa trên yếu tố bất ngờ, tiến hành chọc thủng phòng tuyến Liên Xô ở nhiều chỗ bằng những múi nhọn thọc sâu xe tăng, chặn đứng sự rút lui của Hồng quân về phía Đông rồi tiến tới tiêu diệt Hồng quân bằng những trận hợp vây đồng thời ở nhiều điểm. Dự kiến của ''kế hoạch Bacbarôxa'' sẽ ''đánh bại nước Nga bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng trước khi kết thúc chiến tranh với Anh'' (chỉ thị số 21 của Hítle). Hítle dự tính sẽ ''đánh quỵ nước Nga'' trong vòng từ l tháng rưỡi đến 2 tháng.

Đi đôi với kế hoạch xâm lược về quân sự là kế hoạch cướp bóc tài nguyên và tàn sát người Nga một cách man rợ. Chỉ thị ngày 12-5-1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức bắt sĩ quan, binh lính Đức phải tuân theo:

“Hãy nhớ và thực hiện:

- Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…

- Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.

- Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng…anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh''.

2. Cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Mátxcơva và Xtalingrát

Trước lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước. “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy!” ''Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng'', nhân dân Liên Xô đã nhất tề đứng dậy, già trẻ, trai gái, triệu người như một, xông thẳng tới quân thù xâm lược. Trong những điều kiện rất khó khăn, bất lợi do yếu tố bất ngờ và so sánh lực lượng quân chênh lệch gây nên, quân và dân Liên Xô đã phải trải qua những cuộc chiến đấu mở đầu hết sức gay go, quyết liệt với những hi sinh và tổn thất nặng nề.

Trước tiên là những trận chiến đấu để bảo vệ biên giới của Tổ quốc, lúc này Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô không còn cách nào khác, ngoài việc thực hiện phòng ngự về chiến lược, nhằm những mục đích:

- “Kìm chân quân phát xít thật lâu trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.

- Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt vàhao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng.

- Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và Chính phủ trong việc di chuyển nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào phía sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh.

- Tích luỹ tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hítle''.

Những trận chiến đấu bảo vệ biên giới đã diễn ra hết sức dũng cảm, oanh liệt. Quân và dân Xô viết đã giữ từng tấc đất, từng ngôi nhà trong những điều kiện hết sức chênh lệch về quân số và vũ khí.

Mặc dù phải thực hiện những cuộc rút lui để bảo toàn lực lượng, thậm chí phải mở những ''đường máu'' vượt qua những vòng vây của quân địch với tổn thất khá nặng nề, nhưng Hồng quân đã kìm chân được bước tiến của kẻ thù, làm cho chúng không thực hiện được ý đồ sẽ kết thúc cuộc chiến đấu ở biên giới trong vòng ''nửa giờ đồng hồ'' như kế hoạch đã định. Nhờ đó, Hồng quân có thời gian và điều kiện để tổ chức lực lượng, củng cố tuyến phòng ngự theo chiều sâu.

Đến giữa tháng 7, mặt trận biên giới coi như kết thúc, và quân đội phát xít Đức ngày càng tiến sâu vào nội địa Liên Xô. Đến tháng 9-1941, đạo quân phía Bắc của Phôn Lép đã tiến sát tới Lêningrát, bao vây thành phố này; ở mặt trận trung tâm, quân của Phôn Bốc tiến đến Xmôlenxcơ; ở phía Nam, quân Đức chiến Kiép, tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Chiến tuyến càng mở rộng ra, quân đội Đức càng gặp nhiều khó khăn và càng bị tổn thất nặng nề hơn trước. Riêng trong 2 tháng đầu của cuộc chiến tranh ở Liên Xô, lục quân Đức đã mất gần 40 vạn người (trong khi đó, suốt từ tháng 6 đến tháng 12-1941, trên tất cả các mặt trận khác, chúng chỉ tổn thất có 9000 tên). Đến lúc này, cái giá mà bọn phát xít đã phải trả không chỉ là sự thiệt hại nặng nề về người và vũ khí, mà quan trọng hơn là sự phá sản của chiến lược ''chiến tranh chớp nhoáng'' và sự sụp đổ bước đầu của danh hiệu ''đạo quân bách chiến, bách thắng'' đã được nẩy sinh đầu tiên ngay từ tướng lĩnh cao cấp và binh sĩ Đức.

Tháng 10-1941, Bộ chỉ huy Đức tập trung mọi sức lực để mở cuộc tấn công vào hướng Mátxcơva với hi vọng chiếm được thủ đô Mátxcơva sẽ có ảnh hưởng quyết định đối với kết cục của chiến tranh. Với mật danh là "bão táp'', kế hoạch đánh chiếm Viadơma- Mátxcơva và Brianxcơ Mátxcơva rồi sau đó đánh vu hồi từ phía bắc và phía nam để trong một thời gian ngắn có thể chiếm được Mátxcơva. Để đạt mục đích chiến lược đó, Hítle đã huy động 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng hơn 1 triệu quân) và gần 1000 máy bay vào trận đánh Mátxcơva, với ưu thế hơn hẳn quân đội Liên Xô (bộ binh hơn l,25 lần, xe tăng-2,2 lần, đại bác và súng cối-2,l lần, máy bay-l,7 lần) Hítle chắc tin ở thắng lợi mĩ mãn. Trong nhật lệnh ngày 2-10-1941, ngày mở đầu cuộc tấn công Mátxcơva, Hítle tuyên bố phải tiêu diệt kẻ thù ''trước khi mùa đông tới” và điên cuồng quyết định ngày 7-l1-1941 sẽ ''chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng trường''. Trong hội nghị các tướng lĩnh, Hítle tuyên bố sẽ biến Mátxcơva ''thành một cái hồ lớn bao phủ vĩnh viễn thủ đô của dân tộc Nga''. Hítle còn ra lệnh cho Bộ chỉ huy đạo quân Trung tâm ''phải bao vây thành phố thế nào để không một người lính Nga nào, không một người dân nào, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ con có thế bỏ chạy'' và ''phải hủy diệt nhân dân và thành phố Mátxcơva''. Ngoài ra, Hítle thậm chí còn thành lập một đội đặc biệt để phá hủy điện Cremli.

Trong tháng 10 và 11, quân đội phát xít ào ạt mở 2 đợt tấn công đại quy mô vào Mátxcơva. Nhờ ưu thế về lực lượng và vũ khí, quân Đức đã chiếm được Ôriôn, bao vây Tula, và có nơi đã tiến vào sát cạnh Mátxcơva 20 kilômét. Một nguy cơ hiểm nghèo đang đè nặng trái tim mọi người dân Xô viết và toàn nhân loại tiến bộ. Nhưng, trong những giờ phút nguy kịch đó Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn bình tĩnh giữ vững tay lái. Trung ương Đảng kêu gọi toàn dân Liên Xô hãy hoàn thành nhiệm vụ vinh quang trước Tổ quốc: Không cho quân thù tới Mátxcơva! Hội đồng quốc phòng nhà nước do Xtalin đứng đầu ở lại Mátxcơva, trực tiếp lãnh đạo việc bảo vệ thủ đô. Tướng G.K.Giucốp được chỉ định làm Tổng chỉ huy bảo vệ Mátcơva”. Đáp lời kêu gọi của Đảng, nhân dân Mátxcơva đã biến thủ đô và các vùng ven thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Hàng chục vạn người Mátxcơva ngày đêm làm việc để xây dựng những phòng tuyến bao quanh thành phố.

Theo sáng kiến của nhân dân, thủ đô đã thành lập 12 sư đoàn dân quân với nhiều tổ xung kích đánh xe tăng. Sáng 7-11, kỉ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng tháng Mười, tại Hồng trường đã diễn ra một cuộc duyệt binh đặc biệt. Những đơn vị duyệt binh, với vũ khí và đạn dược sẵn sàng, diễu qua Hồng trường rồi tiến thẳng ra mặt trận, mặc dù quân thù đang ở ngay sát chân thành Mátxcơva.

Trong đợt tấn công ác liệt và đẫm máu tháng 10, quân phát xít Đức tiến được từ 230 đến 250 kilômét, nhưng lực lượng của chúng bị tổn thất nghiêm trọng, kế hoạch thôn tính Mátxcơva trong giữa tháng 10 bị đổ vỡ, và đến cuối tháng l0, cuộc tấn công đã bị chặn đứng lại. Sau khi chấn chỉnh, bổ sung lại lực lượng, ngày 15-ll, bộ chỉ huy quân Đức lại mở đợt tấn công thứ hai vào Mátxcơva, nhưng tất cả các mũi đột phá của địch đều lần lượt bị bẻ gẫy. Đến đầu tháng 12, cuộc tấn công của quân Đức buộc phải ngừng lại vì lúc này lực lượng của chúng đã bị tổn thất quá nặng nề (nhiều đại đội chỉ còn 20 đến 30 tên), tinh thần binh lính sa sút hẳn, ngay nhiều tên tướng Đức cũng không còn tin sẽ chiếm được Mátxcơva nữa.

Ngày 6-12, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công ở Mátxcơva và sau hai tháng chiến đấu, đã đẩy lùi quân đội phát xít Đức ra xa Mátxcơva có nơi đến 400 kilômét. Kế hoạch đánh chiếm Mátxcơva của Hítle đã sụp đổ tan tành. Trong cuộc chiến đấu ở Mátxcơva, phát xít Đức đã bị thiệt hại tổng cộng hơn nửa triệu quân, 1300 xe tăng, 2500 đại bác, trên 15.000 ô tô và nhiều phương tiện kĩ thuật khác.

Với chiến thắng Mátxcơva, lần đầu tiên sau 6 tháng chiến tranh, Hồng quân đã làm cho các đơn vị chủ lực của phát xít Đức phải chịu những tồn thất nặng nề nhất. Tướng Đức Vét Phôn thú nhận: ''Quân đội Đức, trước đây được coi là không thể bị đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt''. Thất bại ở Mátxcơva còn làm cho nội bộ hàng ngũ quân phát xít hoang mang, tan rã, các tướng lĩnh cao cấp đổ lỗi cho nhau. Hítle cách chức Tổng tư lệnh lục quân Phôn Bơraosít, cách chức Phôn Bốc - tư lệnh đạo quân trung tâm, tướng Guđêrian - Tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng lĩnh khác. Chiến thắng Mátxcơva đã củng cố lòng tin của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít.

Cũng trong những thời điểm khó khăn nhất này của đất nước (từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 11-1941), nhân dân Liên Xô đã tiến hành một cuộc di chuyển khổng lồ chưa từng có trong lịch sử: 1500 xí nghiệp lớn (chủ yếu là những xí nghiệp quốc phòng) và 10 triệu dân gồm cụ già, phụ nữ và trẻ em đã được di chuyển về phía Đông. Việc di chuyển, khôi phục và phát triển ngành sản xuất công nghiệp trong những năm chiến tranh, về quy mô củng như ý nghĩa của nó đối với vận mệnh của Tổ quốc Xô viết, “cũng trọng đại ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc”.

Mùa hè năm 1942, lợi dụng lúc chưa có Mặt trận thứ hai ở châu Âu, Hítle một lần nữa lại dốc toàn lực lượng tung vào mặt trận Xô - Đức. Nhận thấy khó có thể đánh chiếm Mátxcơva bằng một cuộc tấn công trực diện, Bộ chỉ huy Đức quyết định chuyển trọng tâm tiến công xuống phía nam, cụ thể là khu vực sông Vonga và Cápcadơ, nhằm đánh chiếm vùng dầu lửa và vựa lúa mì lớn nhất của Liên Xô, rồi sau đó sẽ đánh chiếm Mátxcơva từ phía sau.

Tháng 7-1942, Hítle mở cuộc tấn công lớn nhằm chiếm bằng được Xtalingrát (nay là Vongagrat).

Nhờ tập trung ưu thế hơn hẳn về lực lượng, đến giữa tháng 8-1942 quân phát xít Đức đã tiến đến khu vực lân cận thành phố Xtalingrát. Ngày 21-8, quân đội Liên Xô buộc phải chuyển từ tuyến phòng ngự bên ngoài Xtalingrát vào tuyến bên trong. Từ 13-9, cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra ngay trong thành phố Xtalingrát lúc này trở thành cái“nút sống”của Liên Xô và quyết tâm của Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô là phải giữ cho được Xtalingrát bằng bất cứ giá nào. Với khẩu hiệu “không lùi một bước'', các chiến sĩ Xô viết bảo vệ Xtalingrát đã chiến đấu bền bỉ tới giọt máu cuối cùng để giữ vững từng vị trí, từng tấc đất của thành phố. Mỗi ngày đêm quân đội Liên Xô phải đánh lui khoảng từ 12-15 đợt tấn công ác liệt của kẻ thù. Nhưng cuối cùng, Xtalingrát không những vẫn hiên ngang đứng vững mà còn giáng trả liên tục, làm cho quân thù bị tổn thất nặng nề. Từ tháng 7 đến hết tháng 11, trong các trận chiến đấu ở sông Đông, sông Vonga và ở Xtalingrát, quân phát xít Đức bị thiệt hại hơn 60 vạn người, hơn 1000 xe tăng, hơn 2000 pháo cối, và gần 1400 máy bay. Tới lúc này, do bị tổn thất quá nặng nề, quân đội Đức không còn lực lượng dự bị để triển khai các cuộc tiến công nữa và đã lâm vào một tinh thế hết sức nguy khốn.

3. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Mĩ, Nhật tham chiến

Lợi dụng khi phát xít Đức tấn công Liên Xô và các nước tư bản châu Âu bị bại trận, Nhật Bản quyết định ''Nam tiến'', đánh vào khu vực ảnh hưởng của các nước Mĩ, Anh, Pháp. Ngày 7-12-1941, vào 7 giờ 55 phút giờ địa phương, các máy bay trên tầu sân bay Nhật cất cánh oanh tạc dữ dội các tầu chiến và sân bay Mĩ ở cảng Trân Châu. Tham gia trận tập kích này còn có 12 tầu ngầm Nhật. Cuộc tập kích bất ngờ và dữ dội của hạm đội Nhật đã gây cho hạm đội Mĩ những tổn thất nặng nề chưa từng có trong lịch sử hải quân Mĩ: trong số 8 tầu chủ lực, 5 chiếc bị đánh chìm tại chỗ, số còn lại bị trọng thương; hạm đội Mĩ còn bị thiệt hại 19 tầu chiến khác và 177 máy bay, hơn 3000 binh lính và sĩ quan Mĩ bị thiệt mạng.

Thiệt hại của Nhật rất nhỏ: 29 máy bay, l tầu ngầm và 5 tầu ngấm nhỏ. Tổng thống Mĩ Rudơven và các nhà lãnh đạo quân đội Mĩ coi cuộc tập kích cảng Trân Châu là một sự kiện nhục nhã nhất trong lịch sự quân đội Mĩ.

Ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương cũng là ngày bất hạnh đối với hạm đội Anh. Ngày 8-12, ham đội Anh, gồm 2 tầu bọc sắt và 4 tầu ngư lôi, rời cảng Xingapo để lên đường tấn công các tầu vận tải của Nhật. Sáng ngày l0-12, máy bay Nhật đã tấn công và đánh chìm cả 2 tầu bọc sắt của Anh. Hạm đội Mĩ và hạm đội Anh đã bị đánh bại, từ đây hạm đội Nhật làm chủ Thái Bình Dương.

Ngày 8-12-1941, Mĩ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 11-12, Mĩ tuyên chiến với Đức và Italia. Cùng ngày, Đức, Italia tuyên chiến với Mĩ.

Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến tranh châu Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản đã thắng lớn trong giai đoạn này. Anh - Mĩ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương.

Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái Lan. Sau khi đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Mã Lai, quân Nhật từ phía bắc đánh tập hậu Xingapo. Mười vạn quân Anh ở Xingapo không hề chống cự và tháo chạy. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ.

Ngày 31-12-1941, quân Nhật bắt đầu tấn công Inđônêxia, thuộc địa của Hà Lan. Đến đầu tháng 3-1942, các đảo chủ yếu của Inđônêxia thuộc Hà Lan (Xumatra, Giava v.v…) đã rơi vào tay quân Nhật. Chiếm được Inđônêxia, quân Nhật đã mở được cánh cửa đi vào Ấn Độ Dương.

Hầu như đồng thời với cuộc đổ bộ lên Bắc Mã Lai, quân Nhật cũng đã tiến hành cuộc tấn công đánh chiếm quần đảo Philíppin. Ngày 7-12-1941, quân Nhật đổ bộ lên phía bắc đảo Luyxông. Cho tới khoảng đầu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philippin.

Trong thời gian hơn 5 tháng sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật đã củng cố được trận địa của chúng ở Đông Dương và Thái Lan, chiếm Mã Lai và Xingapo, chiếm những đảo của Inđônêxia một phần Tân Ghinê, chiến Miến Điện, Philippin, Hồng Công, các quần đảo thuộc Nam Thái Bình Dương (Guam, Wake, Tân Britanya, Salômông), từ Miến Điện tiến lên tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Nhật Bản đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng 3.800.000 km2 với 150 triệu dân (nếu tính cả phần đất Trung Quốc mà chúng đã chiếm được trước kia, thì đến mùa hè 1942 quân Nhật đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng 7 triệu km2 với số dân khoảng 500 triệu).

Sau khi đánh chiếm được một vùng rộng lớn ở châu Á - Thái Bình Dương, những nhược điểm về quân sự của Nhật Bản cũng bắt đầu bộc lộ. Những hạn chế về số quân, tiếp tế hậu cần làm cho quân Nhật gặp rất nhiều khó khăn trong các vùng mới chiếm đóng. Trong khi đó, lưu lượng tinh nhuệ chủ yếu của quân đội Nhật lại phải án ngữ dọc biên giới Liên Xô - Trung Quốc để chuẩn bị cuộc chiến tranh phong Liên Xô trong tương lai, (ngày 13-4-1941) với thời hạn 5 năm, nhưng bọn quân phiệt Nhật chỉ chờ dịp để tấn công xâm lược Liên Xô. Vì vậy, trên chiến trường châu Á - Thái Bình Dương, mùa hè năm 1942 các mũi tấn công của quân Nhật đã chững lại.

Tháng 5-1942, tại vùng biển San hô (Corail) giữa Ôxtrâylia và quần đảo Salômông, đã diễn ra trận đánh lớn giữa hải quân Mĩ và hải quân Nhật. Thiệt hại của hai bên là tương đương. Nhưng hạm đội Nhật đã bị đánh bại. Tiếp đó, tại vùng biển quần đảo Mituây (Midway), đầu tháng 6-1942, quân Nhật lại bị một thất bại mới trong cuộc đụng độ với hải quân Mĩ, Anh. Thiệt hại của Nhật trong trận này là mất 4 tầu sân bay, l tầu tuần tiễu và l số lớn máy bay. Trận Mituây chứng tỏ ưu thế thuộc về phía Mĩ – Anh. Tuy vậy, trong suốt 2 năm 1942 và 1943, phía Mĩ-Anh vẫn không tiến hành cuộc phân công thực sự để đánh bại lực lượng Nhật Bản trên Thái Bình Dương. Các trận đánh chỉ diễn ra một cách rất hạn chế trên vùng biển và đất liền tại các quần đảo Salômông và Tân Ghinê. Ý đồ của các chính phủ Mĩ, Anh là né tránh chiến tranh lớn với Nhật Bản và chờ đợi một cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản với Liên Xô.

4. Chiến sự ở Bắc Phi

Từ tháng 11-1940 đến tháng 9-1941, một trận giao chiến đã diễn ra ở Bắc Phi giữa quân Anh và quân của tướng Rômmen. Lúc đầu Đức chú trọng đến mặt trận Libi vì Đức muốn chiếm kênh Xuyê và cắt đứt những đường giao thông chính của Anh với các thuộc địa quân Đức đuổi quân Anh đến biên giới Ai Cập. Quân Anh bị thua liên tiếp.

Nhưng tình hình đã thay đổi sau thất bại của quân Đức trước Mátxcơva. Bấy giờ, mặt trận Xô - Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc Đức ít chú ý đến các mặt trận khác. Mặt trân Libi trở nên thứ yếu.

Lúc này, đế quốc Mĩ lại coi việc chiếm Bắc Phi là mục tiêu quan trọng trước mắt (bởi Mĩ muốn chiếm những nguồn dầu hỏa ở Cận Đông và hất cẳng Anh, Pháp ở đây). Do vậy, F.Rudơven dự định đổ bộ lên Bắc Phi.

Trước ý đồ của Mĩ, Chính phủ Anh vội vàng quyết định mở cuộc tiến công ở Bắc Phi để giành lại các vị trí của mình trước khi quân Mĩ kéo đến. Tình hình càng thêm thuận lợi, bởi vì cuộc chiến đấu ác liệt ở mặt trận Xô - Đức đã cầm chân tất cả lực lượng của Đức ở đây. Đức còn buộc phải điều một phần quân ớ Bắc Phi sang mặt trận Liên Xô. Mùa thu 1942, quân đoàn thứ 8 của Anh ở Bắc Phi gồm 7 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn thiết giáp và 7 lữ đoàn chiến xa đã mở cuộc tiến công. Quân Đức có 4 sư đoàn khá yếu và 11 sư đoàn Italia.

Ngày 23-10, quân Anh tấn công bất ngờ ở vùng En Alamen (El Alamein). Quân Đức và ltalia phải rút lui nhanh chóng. Trong 14 ngày, quân Anh tiến được 850 cây số.

5. Mặt trận Đồng minh chống phát xít ra đời

Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, hầu hết các nước trên thế giới đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến, vận mệnh của tất cả các dân tộc sẽ do cuộc chiến tranh này định đoạt. Việc thành lập một liên minh quốc tế đã trở thành nguyện vọng và đòi hỏi bức thiết của tất cả các lực lượng tiến bộ, dân chủ và hòa bình trên thế giới.

Ngày 15-8, Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh đã gửi một bức thông điệp chung cho Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, trong đó đề nghị tổ chức tại Mátxcơva một hội nghị để bàn về việc cung cấp cho nhau những nguyên liệu và vật tư chiến tranh. Chính phủ Liên Xô đã chấp nhận đề nghị đó. Hội nghị đã được tiến hành ở Mátxcơva từ ngày 29-9 đến ngày 1-10-1941. Văn kiện hội nghị được kí kết ngày 1-11-1941 quy định sự giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế trong những năm sắp tới giữa Liên Xô và Anh, Mĩ.

Cuối năm 1941, sự cần thiết hình thành chính thức một mặt trận đồng minh chống phát xít trên phạm vi thế giới càng trở nên bức thiết và những điều kiện để thành lập mặt trận đó đã đầy đủ. Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trong trận Mátxcơva đã nâng cao vị trí của Liên Xô trên trường quốc tế và nhân dân thế giới đòi hỏi phải liên minh với Liên Xô. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, nước Mĩ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến, vì không còn một dân tộc nào có thể đứng ngoài cuộc chiến tranh, trận tuyến chống phát xít trên thế giới đã rõ rang. Ngày 1-1-1942, tại Oasinhtơn đã kí kết bản“Tuyên bố Liên hợp quốc'' của 26 nước, trong đó có Liên Xô, Mĩ và Anh. Bản Tuyên bố quy định:

- Các chính phủ cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đất nước vào cuộc chiến tranh chống bọn phát xít và tay sai của chúng.

- Mỗi chính phủ cam kết hợp tác với các chính phủ tham gia bản tuyên bố chung, không được kí hiệp định đình chiến hay hòa ước riêng với các nước thù địch.

- Bất cứ nước nào có đóng góp vào cuộc đấu tranh chiến thắng chủ nghĩa phát xít đều có thể tham gia bản tuyên bố trên''.

Bản tuyên bố chung của 26 nước ngày 1-1-1942 đã đánh dấu sự hình thành Mặt trận Đồng minh chống phát xít trên phạm vi toàn thế giới.

Để củng cố Mặt trận Đồng minh chống phát xít, tăng cường quan hệ hợp tác giữa ba nước Liên Xô và Anh, Mĩ, tháng 5-1942, Chính phủ Liên Xô đã cử ngoại trưởng Môlôtốp sang Luân Đôn và Oasinhtơn để đàm phán với các nhà lãnh đạo hai nước Anh, Mĩ. Ngày 26-5-1942, tại Luân Đôn đã kí kết một hiệp ước giữa Anh và Liên Xô về việc liên minh chống nước Đức Hítle cùng bọn tay sai ở châu Âu, và việc tương trợ lẫn nhau sau chiến tranh. Ngày 11-7-1942, tại Oasinhtơn đã kí kết Hiệp ước Liên Xô - Mĩ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến tranh chống xâm lược.

Như vậy, nhờ cố gắng của Liên Xô, Mặt trận Đồng minh chống phát xít toàn thế giới, mà nòng cốt là liên minh Liên Xô - Mĩ - Anh, cuối cùng đã được thành lập. Sự tồn tại của Mặt trận Đồng minh đ&a...

1 tháng 3 2021

copy ak bn ei nguồn ?? dài thế...kkk...

4 tháng 4 2017

Đáp án cần chọn là: C

Sự kiện được đánh giá là tiêu biểu nhất và là lá cớ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ La-tinh sau Chiến tranh thế giới thứ hai là thắng lợi của cách mạng Cuba. Vì Cuba là nước đầu tiên lật đổ được nền thống trị của chế độ độc tài thân Mĩ, xây dựng chế độ cộng hòa ở khu vực. Cách mạng Cuba là nguồn cổ vũ to lớn cho các nước còn lại trong khu vực đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc