Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
thông điệp tác muốn gửi đến là vẻ đẹp của thiên nhiên đối với con người
(mình học ngu văn )
Đoạn thơ trên của nhà thơ Trần Đăng Khoa đã miêu tả vẻ đẹp đồng quê Việt Nam yên bình dưới con mắt tinh tế của tác giả.Trần Đăng Khoa đã miêu tả một cách thật sinh động và tràn đầy sức sống.Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá và từ ngữ giàu hình ảnh, điêu luyện." Chị lúa phất phơ bím tóc, cậu tre thì học bài, đàn cò khiên nắng và cô gió chăn mây..."tất cả đều gần gũi và gắn bó với con người lao động Việt Nam.Tác giả đã biến các sự vật vô tri vô giác như một con người. Cách miêu tả độc đáo tác giả đã đem đến cho người đọc một cảm giác thích thú và một bức tranh phong cảnh thiên nhiên thật rực rỡ.
1/ Đoạn thơ viết theo thể thơ tự do. Nội dung: miêu tả bức tranh thiên nhiên đồng quê.
2/ Các hình ảnh nhân hóa: "chị lúa phất phơ bím tóc", "Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học" "đàn cò áo trắng/ khiêng nắng" "cô gió chăn mây" "bác mặt trời đạp xe". -> Tác dụng: - Làm cho các sự vật đều trở nên sinh động, có hồn: "chị lúa" điệu đà, những "cậu tre" chăm chỉ, đàn cò, cô gió và bác mặt trời cần mẫn. - Tạo nên một bức tranh thiên nhiên đồng quê tươi sáng, đẹp đẽ. - Thể hiện cái nhìn hồn nhiên, trong sáng, tinh nghịch, vui tươi của người viết.
3/ Nét độc đáo trong ngòi bút Trần Đăng Khoa trong đoạn thơ trên: sử dụng thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn linh hoạt, sử dụng dày đặc các hình ảnh nhân hóa, miêu tả tất cả các sự vật trong trạng thái động khiến thiên nhiên đều mang dáng dấp của con người.
#vanhong2109
Câu1: PTBĐ miêu tả
Câu2: Từ láy là Phất phơ
Câu3: nội dung: miêu tả cảnh cánh đồng của thiên nhiên tưa sáng và sinh động. Cho ta thấy sự tinh tế khi miêu tả và quan sát của tác giả.
Câu4: BPTT nhân hóa. Gọi lúa là chịvaf biết phất phơ bím tóc. Gọi tre là cậu và bá vai nhau đứng học. Gọi gió là cô và chăn mây. Gọi mặt trời là bác và đạp xe. Tác dụng: Làm cho câu thơ trở nên hay hơn, sinh động. Tô lên vẻ đẹp của thiên nhiên, cánh đồng lúa chín.
Anh Lê Đình Chinh sinh năm 1960, quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, trú quán tại nông trường Sông Âm, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
Ở gia đình Lê Đình Chinh là con ngoan, ở trường phổ thông anh là học sinh giỏi toàn diện, là đội viên tốt. Anh luôn luôn gương mẫu, hăng hái phấn đấu, rèn luyện tốt, được mọi người quý mến.
Lê Đình Chinh nhập ngũ năm 15 tuổi. Sau thời gian huấn luyện, anh được biên chế vào đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 12, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng). Anh từng tham gia chiến đấu nhiều trận với quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam, lập được một số công trạng.
Ngày 25/8/1978, trong khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội, anh Lê Đình Chinh đã anh dũng hy sinh. Khi ấy, anh vừa tròn 18 tuổi.
Ngày 30/8/1978, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho liệt sĩ Lê Đình Chinh.
Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã kịp thời tuyên dương công trạng và truy tặng huy hiệu "Vì thế hệ trẻ"; đồng thời phát động trong thế hệ trẻ Việt Nam phong trào "Sống, chiến đấu rực lửa anh hùng như Lê Đình Chinh".
Sau khi hi sinh, anh Lê Đình Chinh được an táng tại khu vực gần biên giới, sau đó được quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Cao Lộc. Sáng ngày 06/01/2013, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng và Ủy ban Nhân dân thành phố Thanh Hóa đã làm lễ an táng hài cốt anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh tại nghĩa trang liệt sĩ Hàm Rồng.
Anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh là tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tên anh đã vinh dự được nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam đặt tên đường, trường học, nông trường…
Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng trong đoạn thơ trên là:
- Chị lúa, bím tóc
- Cậu tre, bá vai, thì thầm đứng học.
- Đàn cò khiêng nắng
- Cô gió, chăn mây
- Bác mặt trời, đạp xe, nhìn chúng em, nhăn nhó cười.
=> Nhà thơ đã gọi tên sự vật hiện tượng bằng những danh xưng của người, gán cho sự vật những hoạt động trạng thái của người. Phép nhân hóa đã làm cho sự vật hiện tượng trở nên sinh động, gần gũi và thân thiết hơn với lứa tuổi thiếu nhi. Thể hiện sự am hiểu và sự tinh nghịch, hồn nhiên trong giọng thơ của Trần Đăng Khoa.
Nhân hóa:
- Chị lúa
- Cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
- Khiêng nắng
- Cô gió chăn mây
- Bác mặt trời đạp xe
Nhịp thơ ba ba hai và cách viết thành 3 câu thơ này thực chất là sự vắt dòng, thể hiện những nỗ lực cách tân thơ của tác giả. ba câu thơ nhưng chỉ viết về một chủ thể, đó là đàn cò. Hình thức câu thơ cũng nói lên những vất vả, nhọc nhằn của đàn cò trắng "khiêng nắng qua sông" như chính tác giả phải cân nhắc, đặt bút lên đặt bút xuống mới tách thành 3 dòng. Qua hình ảnh con cò quen thuộc, tác giả nói đến những nặng nhọc, vất vả của con người trong lao động, nhưng ẩn sâu trong đó là thế giới trẻ thơ, trong trẻo khó có gì so sánh được.
- Phương thức biểu đạt : miêu tả kết hợp với tự sự
- Tác giả đã sử dụng phép tu từ : nhân hóa.
+ sử dụng từ vốn gọi người để gọi vật: chị lúa, cậu tre, cô gió
+ Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động, tính chất của vật: lúa phất phơ bím tóc, tre bá vai nhau thì thầm đứng học,cò trắng khiêng nắng, gió chăn mây
"Bên ruộng lúa xanh non
Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò trắng
Khiêng nắng
Qua sông
Cô gió chăn mây trên đồng
Bác mặt trời đạp xe qua đỉnh núi
Có vẻ vui tươi nhìn chúng em nhăn nhó cười" Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động, tính chất của vật: lúa phất phơ bím tóc, tre bá vai nhau thì thầm đứng học,cò trắng khiêng nắng, gió chăn mây