Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khí hậu khắc nghiệt lạnh lẽo khiến cho đới lạnh là nơi có ít dân.Dù đã thích nghi,các dân tộc lâu đời ở phương Bắc cũng chỉ sống được trong các đài nguyên ven biển phía bắc châu Âu, Châu Á, Bắc Mĩ.Người La-pông ở Bắc Âu và người Chúc,người i-a-kut,người Xa-mô-y-et ở bắc áchăn nuôi tuần lộc và săn thú có lông quý.Người Inuit ở Bắc Mĩ và đảo greenland sống bằng nghề đánh bắt cá hoặc săn bắt tuần lộc hải cẩu gấu trắng...... để lấy thịt và da. Họ di chuyển trên các xe trượt do chó kéo.
mìk nghĩ con người ở đới này chỉ sống trong nhà băng thôi mà bạn??!
Sông Nin (tiếng Ả Rập: النيل, an-nīl, tiếng Ai cập cổ: iteru hay Ḥ'pī - có nghĩa là sông lớn), là dòng sông thuộc châu Phi, là sông chính của khu vực Bắc Phi, là con sông dài nhất trên thế giới,[1] với chiều dài 6.650 km và đổ nước vào Địa Trung Hải. Sông Nin được gọi là sông "quốc tế" vì thượng nguồn của nó bắt đầu từ 11 quốc gia gồm Tanzania, Uganda, Rwanda, Burundi,Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Ethiopia, Eritrea, Nam Sudan, Sudan vàAi Cập.
Sông này còn được người Việt phiên âm là Nhĩ Lô như trong sách Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ.
Đây là dòng sông có ảnh hưởng nhất ở châu Phi, gắn liền với sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại, góp phần tạo dựng nên nền Văn minh sông Nin.
Các đoạn sông
Sông Kagera đổ vào hồ Victoria gần thị trấn Bukoba của Tanzania là nguồn cung cấp nước dài nhất, mặc dù các nguồn tài liệu khác nhau không công nhận nó là nhánh dài nhất và do đó nó là nguồn xa nhất của sông Nile. Nguồn hoặc là Sông Ruvyironza từ tỉnh Bururi, Burundi, hoặc Nyabarongo chảy từ rừng Nyungwe ở Rwanda. Hai nguồn cung cấp này gặp nhau tại thác Rusumo tại ranh giới của Rwanda-Tanzania.
Năm 2010, một nhóm khải sát đã đến đây miêu tả về nguồn của nhánh Rukarara, và đ theo một con đường trên sườn núi đã tìm thấy (trong mùa khô) nguồn nước mặt lộ ra chảy nhiều dặm ở phía thượng lưu, và đã tìm thấy nguồn mới, do đó chiều dài sông Nin là 6.758 km. Vịnh Gish được xem là nơi có "nước thánh" có giọt đầu tiên của sông Nin.
Nin Trắng
Sông Nin có hai nhánh chính, quan trọng nhất là sông Nin Trắng bắt nguồn từ vùng xích đạo Đông Phi, rồi đến sông Nin Xanh bắt nguồn từ Ethiopia. Hồ Victoria, nằm giữa Uganda, Kenya và Tanzania, được xem là nơi bắt nguồn của dòng sông này.
Nin Xanh
Sông Nin Xanh bắt nguồn từ Hồ Tana trên vùng cao nguyên của Ethiopia. Dòng Nin Xanh chảy được khoảng 1.400 km (850 dặm) tới Khartoum thì hai dòng Nin Xanh và Nin Trắng gặp nhau, hợp lưu tạo nên sông Nin. Phần lớn nguồn nước của sông Nin được cung cấp từ Ethiopia, chiếm khoảng 80-85% lưu lượng lệ thuộc vào vũ lượng. Mùa mưa ăn khớp với mùa hè khi nhiều trận mưa rào trút xuống, góp nước cho sông Nin.
Dòng Nin
Đoạn sông Nin ở phía Bắc chủ yếu chảy qua sa mạc. Phần lớn cư dân Ai Cập, ngoại trừ một số dân cư ven biển, sống dọc theo bờ sông Nin bắt đầu từ phía bắc thành phố Aswan. Di tích nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng tập trung dọc theo hai bên bờ sông Nin. Dòng sông Nin còn là huyết mạch giao thông nhất là vào mùa lũ, khi mà các phương tiện đường bộ không thể di chuyển được.
Lưu vực sông Nin
Lưu vực sông Nin chiếm khoảng 1/10 diện tích châu Phi là nơi phát triển và tàn lụi của nhiều nền văn minh cổ đại. Cư dân hai bên bờ sông Nin là một trong những nhóm người đầu tiên biết trồng trọt, làm nông nghiệp và sử dụng cày. Lưu vực sông Nin được giới hạn ở phía Bắc bởi biển Địa Trung Hải, phía Đông bởi dãy Biển đỏ (Red Sea Hills) và Cao nguyên Ethiopia, phía Nam bởi cao nguyên Đông Phi, trong đó có bao gồm hồ Victoria là một trong 2 nguồn của sông Nin, phía Tây tiếp giáp với lưu vực sông Chad, sông Công gô và trải dài xuống Tây nam đến dãy Marrah thuộc Sudan
Lịch sử
Sông Nin với nguồn nước dồi dào đã tạo nên vùng thung lũng trù phú nhất "lục địa đen". Nó đã góp phần rất lớn tới sự hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại, với những kim tự tháp kỳ vĩ. Sông Nin đã ảnh hưởng lớn tới nền văn hoá Ai Cập cổ ngay từ thời đại đồ đá, khi mà sa mạc Sahara đang ngày càng xâm lấn sang phía Đông của lục địa châu Phi.
Sông Nin bắt nguồn từ hồ Victoria ở khu vực xích đạo có mưa quanh năm nên lượng mưa khá lớn. Tới Khác-tum sông Nin nhận thêm nước từ phụ lưu Nin Xanh ở khu vực cận xích đạo, lưu lượng trở nên rất lớn, mùa nước lũ lên tới 90 000 m³/s; đến biên giới Ai Cập mặc dù sông Nin chảy giữa miền hoang mạc và không nhận được thêm phụ lưu nào nữa, nước sông vừa ngấm xuống đất, vừa bốc hơi mạnh, gần biển lưu lượng nước giảm nhiều nhưng ở Cai-rô (Ai Cập) về mùa cạn lưu lượng vẫn còn 700 m³/s.
Tranh chấp về nước
Nước sông Nin ảnh hưởng đến các thể chế chính trị Đông Phi và Sừng châu Phi trong nhiều thập kỷ. Các quốc gia gồmUganda, Sudan, Ethiopia và Kenya đã phàn nàn về việc Ai Cập thống trị nguồn tài nguyên nước. Sáng kiến lưu vực sông Nin thúc đẩy hợp tác hòa bình giữa các nước
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm thiết lập những thỏa thuận chia sẻ nước sông Nin giữa các quốc gia này. Nhưng rất khó khăn để đạt được thỏa thuận của tất cả các quốc gia trên về lợi ích của họ và những khác biệt về chính trị, chiến lược và xã hội. Ngày 14 tháng 5 năm 2010 tại Entebbe, Uganda, Ethiopia, Rwanda, Tanzania và Uganda đã ký một thỏa thuận mới về chia sẻ nước sông Nin mặc dù thỏa thuận này chịu sự phản đối mạnh mẽ của Ai Cập và Sudan. Lý tưởng nhất, những thỏa thuận như thế này nhằm thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả và công bằng nguồn tài nguyên nước lưu vực sông Nin. Nếu không có sự hiểu rõ hơn về sự sẵn có của nguồn tài nguyên nước trong tương lai của sông Nin, thì sẽ có nhiều cuộc xung đột giữa các quốc gia dựa vào nguồn cấp nước, phát triển kinh tế và xã hội từ sông Nin.
Khám phá hiện đại
Cuộc thám hiểm Nin trắng, dẫn đầu bởi Hendrik Coetzee Nam Phi, trở thành người đầu tiên xác định chiều dài toàn bộ của sông Nin. Cuộc thám hiểm nguồn của sông Nin ở Uganda vào ngày 17 tháng 1 năm 2004 và đến Địa Trung Hải ở Rosettamột cách an toàn, trong vòng 2 tháng rưỡi.
Vào 28 tháng 4 năm 2004, nhà địa chất học Pasquale Scaturro và cộng sự của ông, kayaker và nhà làm phim tài liệu Gordon Brown đã trở thành người đầu tiên định vị sông Nin Xanh, từ hồ Tana ở Ethiopia đến các bãi biển thuộc Alexandriaở Địa Trung Hải. Mặc dù chuyến thám hiểm gồm nhiều người khác, nhưng Brown và Scaturro là những người duy nhất hoàn thành toàn bộ cuộc hành trình. Nhóm nghiên cứu sử dụng động cơ rời cho hầu hết cuộc hành trình.
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực của nó vào giai đoạn Tân Vương Quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia,Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba và giai đoạn hậu thời Ai Cập. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemy I Soter, đã tuyên bố ông ta là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemy gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũngsông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.
Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.
chúc bạn học tốt
Ở vùng đài nguyên phương Bắc, khí hậu lạnh quanh năm, thực vật chỉ phát triển được vào mùa hạ ngắn ngủi, trong những thung lũng kín gió. Cây cối còi cọc thấp lùn, mọc xen lẫn với rêu, địa y...Các loài động vật ở đới lạnh thích nghi được với khí hậu khắc nghiệt nhờ có lớp mỡ dày (hải cẩu, cá voi...), lớp lông dày (gấu trắng, cáo bạc, tuần lộc...) hoặc bộ lông không thấm nước (chim cánh cụt...). Chúng thường sống thành đàn đông đúc để bảo vệ và sưởi ấm cho nhau. Một số loài dùng hình thức ngủ đông để đỡ tiêu hao năng lượng, số khác di cư đến nơi ấm áp để tránh cái lạnh giá buốt trong mùa đông. Cuộc sống ở đới lạnh sinh động hẳn lên vào mùa hạ khi cây cỏ. rêu. địa y... nở rộ trên đất liền và các sinh vật phù du phát triển mạnh trong đại dương đã tan lớp băng trên mặt, đó là nguồn thức ăn dồi dào cho các loài chim, thú, cá...
câu này mk chịu oy.đg lí thuyết nhảy sang kiểu văn thì mk k lm dk
biểu đồ B : thuộc khí hậu địa trung hải
mùa hạ nhiệt độ khảo 25 độ C, mùa đông nhiệt độ khảng 10 độ C
mùa hạ khô hạn, mưa vào thu đông
*biểu đồ A:
-lượng mưa Tb năm: 1.244 mm/năm
-sự phân bố lượng mưa trong năm:
+ mưa nhiều nhất: tháng 12
+ mưa ít nhất :tháng 9
-biên độ nhiệt năm : 10 độ C
-sự phân bố nhiệt độ trog năm:
+tháng nóng nhất: 3, 11
+tháng lạnh nhất :7
-kiểu khí hậu: nhiệt đới
*biểu đồ B:
-lượng mưa Tb : 897 mm/năm
-sự phân bố lượng mưa :
+ mưa nhiều nhất : tháng 8
+mưa ít nhất : tháng 2
-biên độ nhiệt: 15 độ C
-sự phân bố nhiệt độ:
+thánh nóng nhất: 5
+tháng lạnh nhất:1
-kiểu khí hậu: nhiệt đới
*biểu đồ C:
-lượng mưa tb: 2.592mm/năm
-sự phân bó lượng mưa:
+ mưa nhiều nhất: tháng 4,11
+mưa ít nhất: tháng 7
-biên độ nhiệt: 5 độ C
-sư phân bố nhiệt độ:
+tháng nóng nhât :4
+tháng lạnh nhất: 7
-kiểu khí hậu: xích đạo
*biểu đồ D:
-lượng mưa tb : 506mm/năm
-sự phân bố lượng mưa :
+mưa nhiều nhất: tháng 5,7
+mưa ít nhất : tháng 1,2
-biên độ nhiệt : 12 độ C
-sự phân bố nhiệt độ
+tháng nóng nhất: 2
+tháng lạnh nhất: 7
-kiểu khí hậu: địa trung hải
* sắp xếp:
-biểu đồ C : vị trí 1(li-brơ-vin)
-biểu đồ B: vị trí 2(ua-ga-đu-gu)
-biểu đồ A: vị trí 3(lu-bum-ba-si)
-biểu đồ D: vị trí 4(kêp-tao)
___________________ (Y)
mình nói về thông tin"cuộc sống trong ngôi nhà băng của người I-nuc"nha:
-cuộc sông trong ngôi ngà băng không đc thuận tiện nhưng con người vẫn phải sống cho qua mùa đông giá lạnh từ -30oC\(\rightarrow\) -40oC.nhà băng là nơi cư trú tốt nhất cho người I-nuc,các chú chó và lương thực của họ.nhờ có ngọn đèn mỡ hải cẩu thắp liên tục,nhiệt độ trong nhà luôn duy trì từ 0oC\(\rightarrow\) 2oC.vào nhà người ta phải cởi bỏ bộ quần áo khoác ngoài bằng da và lông thú đã lạnh cứng lại,để tránh băng tan làm ướt người.cơ thể cần luôn khô ráo để chống lại cái lạnh.đối với những người ở đây,điều đáng sợ nhất trong ngôi nhà là sự hỗn tạp của hơi người.trên trần chỉ có 1 lỗ thông hơi nhỏ cho cả ngôi nhà đông đúc,lối ra vào đã bị đống quần áo che kín lại.
động vật đới lạnh có nguy cơ tuyệt chủng:
-báo Amur(báo Mãn Châu) sống trong những khu rừng tuyết ở vùng Viễn Đông Nga.chỉ còn khoảng 40 con.
-hổ Siberia(chúa tể rừng taiga)sống ở vùng băng tuyết nước Nga.hiện nay chỉ có khoảng 400 con.
-báo tuyết(panthera uncia)cư trú ở dãy núi Trung Á.còn khoảng 4000\(\rightarrow\) 4500 con.
- ngoài ra còn cá tuyết Đại Tây Dương , gấu trắng Bắc Cực(giảm 40%),chim cánh cụt(giảm 19%),...vv...vv..
- còn nhìu lắm mà mìk mới trả lời có nhiu đây àk!!~~good luck to you~~
Eskimo (hoặc Esquimaux) hoặc Inuit-Yupik (Alaska:Yupik Inupiat) là dân tộc bản địa sống trên vùng băng giá phân bố từ Đông Siberia (Nga), quaAlaska (Hoa Kỳ), Canada, và Greenland. Hiện nay, người Eskimo có khoảng hai đến ba triệu người, phân thành các nhóm như Eskimo Labrador,Eskimo Bắc Cực, Eskimo Alaska, Eskimo Siberia...
Mục lục
[ẩn]- 1Nguồn gốc
- 2Ngôn ngữ
- 3Trang phục
- 4Lương thực
- 5Nhà ở
- 6Đi lại
- 7Lễ hội
- 8Giống chó Alaskan Malamute của người Eskimo
- 9Xem thêm
- 10Tham khảo
- 11Liên kết ngoài
- 12Chú thích
- 13Liên kết ngoài
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]
Cách đây khoảng 4000 năm, các bộ lạc người Eskimo cổ đã vượt qua eo biển Bering trong đợt di cư từ miền đất Siberia cằn cỗi lạnh giá để tiến về hướng đông. Các nghiên cứu nhân chủng học về Bắc cực đã cho thấy sự hiện diện của nền văn minh Eskimo tại Mũi Krusenstern vào khoảng 1850 năm trước Công nguyên.
Ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]
Ngôn ngữ Eskimo gồm hệ tiếng Eskimo và Aleut, trong đó hệ Eskimo có hai thứ tiếng Inupik và Yupik. Eskimo sống ở miền Bắc Canada - Greenland nói tiếng Inupik; người Eskimo ở vùng Nome Alaska, Đông Siberia người nói tiếng Yupik.
Trang phục[sửa | sửa mã nguồn]
Do sinh sống trên băng tuyết nên người Eskimo chịu rét cực giỏi. Họ thường mặc áo lông dày giản dị dạng túi khâu kín parka với áo tay dài, có mũ trùm đầu và quần mặc bó tới gót hoặc lửng tới gối, để ấm áp hơn phải khâu thành nhiều lớp xù xì, trùm khăn và mũ kín mít.
Lương thực[sửa | sửa mã nguồn]
Lương thực, thực phẩm chủ yếu của người Eskimo là thịt hải cẩu, cá voi, gấu, hươu, cá tuyết. Trong đó hải cẩu là thức ăn quan trọng nhất. Người Eskimo săn bắt hải cẩu bằng cần câu và lao. Thợ săn Eskimo có một cách bẫy thú rất hay là: lấy một đoạn gỗ liễu mềm hoặc xương cá voi vót nhọn, đầu quấn một sợi gân ép thành hình chữ S và đút vào miếng mỡ đặt dưới gốc cây. Các con thú như gấu, chồn, cáo đói thấy miếng mỡ liền nuốt ngay. Sau khi dạ dày tiêu hóa hết phần mỡ và gân thì khúc gỗ hoặc xương cá giãn nở sẽ đâm thủng dạ dày khiến con vật mất máu chết.
Nhà ở[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà của người Eskimo thường xây bằng các khối băng tuyết nửa chôn dưới đất nửa chôn trên mặt đất, gọi là Igloo. Các Igloo có hình vòm với lỗ thông hơi ở giữa và một cửa ra vào.
Đi lại[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa hè người Eskimo di chuyển bằng thuyền kayak hoặc umiak, dạng thuyền đơn giản bằng cây gỗ khoét rỗng và lót da hải cẩu, da sử tử biển, thuôn dài chứa được vài người. Mùa đông người Eskimo đi lại chủ yếu nhờ xe chó kéo, mỗi chiếc có khoảng 10 con chó.
Lễ hội[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa Xuân người Eskimo có lễ hội chào Xuân, mùa Hè có lễ hội chào Hè, mùa Thu có lễ hội săn hươu, hải cẩu, cá voi, mùa Đông có lễ hội dựngnhà, tỉa gọt con vật trên băng, lễ hội may áo lông gấu, cáo, hươu, hải cẩu, ngỗng tuyết, lễ hội làm các dụng cụ từ sừng hươu, răng gấu, chó sói và gạc cá voi, lễ hội làm thuyền kayak, umiak, lễ hội đua chó kéo, lễ hội các linh thần và phù thủy...
xích đạo ẩm thì đất ẩm thôi mà cx tùy theo ko có cây thì trơn có cây thì ẩm mát mẻ lắm đốt rác ko bao h cháy rừng
Hinh nhu ban nham roi dung khong? Moi truong xich dao am khong phan biet cac loai dat. Rieng o moi truong nhiet doi o vung nui la dat feralit nhe ban! Chuc ban hoc tot!
-Về nhà ở : nhà băng chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ.
- Để chống lạnh : dùng đèn mỡ hải cẩu để chống lạnh, mặc quần áo da và lông thú, luôn giữ cơ thể khô ráo.
Theo mình là vậy