Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:
+ Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
+ Các chương tập trung tố cáo tội ác của việc bắt lính phục vị chiến tranh, tố cáo sự lừa bịp trơ trẽn, dã man của bọn thống trị.
+ Làm nổi bật sự mâu thuẫn, dối trá của bọn thực dân giữa lời nói và việc làm.
+ Thảm cảnh chết oan thê thảm của người dân "bản xứ".
- Nghệ thuật: châm biếm, đả kích sắc xảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:
+ Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
+ Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.
+ Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
+ Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
→ Nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc ngắn gọn, xúc tích, bằng chứng thuyết phục, đa dạng về cách nói. Văn chính luận mà hàm chứa tình cảm, giàu hình ảnh.
Câu 1. Nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản.
+ Thuế máu: cái tên gợi lên sự dã man tàn bạo của chính quyền thực dân, bóc lột con người đến tận xương tuỷ, đồng thời thể hiện số phận bi thảm của những người bản xứ và thái độ căm giận của tác giả.
+ Tên các phần trong văn bản: văn bản được chia làm ba phần.
- Phần một: Chiến tranh và người bản xứ, thủ đoạn dụ dỗ để mộ lính ở các thuộc địa của thực dân Pháp và số phận bi thảm của họ.
- Phần hai: Chế độ lính tình nguyện, thủ đoạn dùng vũ lực để bắt lính của thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Phần ba: Kết quả của sự hi sinh, sự tráo trở đê hèn của thực dân Pháp đối với người lính thuộc địa.
Tên các phần của chương sách gợi lên quá trình lừa bịp và bóc lột một cách tàn ác người bản xứ của thực dân Pháp.
Thể hiện thái độ mỉa mai châm biếm của tác giả trước những thủ đoạn gian xảo của thực dân Pháp.
Câu 2. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân dối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi có chiến tranh và sau khi chiến tranh xảy ra. Số phận bi thảm của họ được miêu tả như thế nào?
a) Thái độ của các quan cai trị đối với người dân thuộc địa
Trước khi chiến tranh xảy ra:
- Bị gọi: những tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu => bị coi như súc vật.
- Công việc: kéo xe và ăn đòn của các quan cai trị.
Sau khi chiến tranh xảy ra:
- Được gọi: những đứa “con yêu” những người bạn hiền của các quan cai trị, của toàn quyền lớn, toàn quyền bé, chiến sĩ bảo vệ tự do công lí.
- Công việc: lính đánh thuê, đổ máu đem lại quyền lợi cho kẻ thống trị => Sự bịp bợm giả dối của bọn thực dân.
b) Số phận bi thảm của họ:
Họ không được hưởng tí nào về quyền lợi.
• Phải xa vợ con, quê hương.
• Phải làm việc kiệt sức trong những kho thuốc súng ghê tởm, khạc ra từng miếng phổi.
• Phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, xuống tận đáy biển bảo vệ Tổ quốc của loài thuỷ quái, bỏ xác ở những miền hoang vu vùng Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế.
• Kết quả: tám vạn người không bao giờ thấy mặt trời trên quê hương mình nữa.
=> Những người bản xứ đã trở thành vật hi sinh cho các quan cai trị thực dân. Họ phải xa gia đình, quê hương, tố quốc, hi sinh cả tính mạng một cách đau đớn chua xót. Đó là nỗi khổ đau của kiếp người nô lệ.
Câu 3. Nêu rõ các thủ đoạn mảnh khoé bắt lính của bọn thực dân. Người dân thuộc địa có thực tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không?.
a) Thủ đoạn bắt lính của thực dân Pháp
Bọn thực dân tiến hành những cuộc lùng ráp lớn trên toàn cõi Đông Dương, và đủ các ngón xoay xở tinh vi nhất để làm tiền.
+ Tìm những người nghèo khổ khoẻ mạnh, những người này thân cô thế cô chỉ có chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu được.
+ Đòi đến con cái nhà giàu để bắt bí họ một là đi lính hoặc xì tiền ra, đây mới là cái chúng cần.
b) Thái độ của người bị bắt lính
Việc đi lính đối với người dân bản xứ là sự bắt buộc, họ tìm mọi cơ hội để trốn thoát, chứ không hề có sự tình nguyện như chính phủ rêu rao:
+ Bỏ trốn.
+ Tự làm mình nhiễm phải bệnh nặng nhất (bệnh đau mắt toét chảy mủ) bởi vì đi lính đối với họ đáng sợ hơn cả bệnh tật.
c) Luận điệu bịp bợm của phủ toàn quyền
+ Dùng sự hứa hẹn để phỉnh nịnh người đi lính: ban phẩm hàm cho người sống sót, truy tặng cho người hi sinh.
+ Dùng lời lẽ tán dương: các bạn đã tấp nập đầu quân, đã không ngần ngại rời bỏ quê hương. Tất cả những điều này hoàn toàn trái ngược với những gì mà thực tế đã diễn ra.
d) Sự vạch trần của tác giả
Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự bịp bợm của thực dân Pháp bằng cách đưa ra hàng loạt câu hỏi chất vấn:
+ Các ông nói người An Nam phấn khởi đi lính tại sao có cảnh những người đi lính bị xích tay, bị nhốt trong trường học lại có lính Pháp canh gác?
+ Các ông bảo người An Nam “tấp nập”, không “ngần ngại đi lính” tại sao có những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn liên tục xảy ra?
Lập luận của tác giả đã khiến cho ngài toàn quyền cứng họng không thể trả lời.
Câu 4. Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh như thế nào? Nhận xét về cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi đã bóc lột hết “thuế máu” của họ?.
+ Sự đối xử của chính quyền thực dân:
- Sau khi đã đổ máu để bảo vệ công lí chính nghĩa họ trở về chế độ bản xứ không biết gì đến công lí chính nghĩa.
- Từ người con yêu, bạn hiền mặc nhiên họ trở lại giống người An-nam mít bẩn thỉu.
- Họ bị lột tất cả các của cải, cho đến vật kỉ niệm.
- Bị đánh đập, kiểm soát vô cớ, đối xử với họ như đối xử với lợn từ thức ăn đến chỗ nằm.
+ Nhận xét về cách đối xử:
- Chính quyền thực dân đối xử với những người đi lính trở về như đối xử với súc vật và người có tội, chứ không phải là người đã có công đổ máu tưới cho vòng nguyệt quế của họ được tươi thắm.
- Cách đối xử ấy là sự tráo trở, đê hèn bịp bợm của một chính quyền mà vẫn thường vỗ ngực tự hào là mẫu quốc.
Câu 5. Nhận xét về trình tự bố cục, phân tích nghệ thuật chăm biếm, đả kích sắc sảo của tác giả qua cách xây dựng hình ảnh, giọng điệu?.
+ Nhận xét về trình tự bố cục:
Bố cục của văn bản được sắp xếp theo trình tự thời gian.
+ Tác dụng:
- Lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa, bịp bợm, xảo trá của chính quyền thực dân.
- Nói lên thân phận thảm thương của những người nô lệ.
+ Nghệ thuật châm biếm đả kích:
- Hình ảnh: để lật tẩy bộ mặt xảo trá của chính quyền thực dân tác giả đã đưa ra rất nhiều hình ảnh so sánh ấn tượng thể hiện một cách chính xác bản chất của chúng.
• Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế.
• Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi thì những lời tuyên bố tình tứ các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ... chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân.
- Giọng điệu: hài hước, châm biếm, trào phúng, sắc sảo, dùng những từ ngữ có tính chất mỉa mai: con yêu, bạn hiền, bảo vệ vương quốc của loài thuỷ quái, lời tuyên bố tình tứ...
Câu 6. Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích?
- Trong văn bản yếu tố tự sự biểu cảm, nghị luận xen kẽ với nhau một cách chặt chẽ.
- Yếu tố biểu cảm còn được thể hiện qua việc lựa chọn các chi tiết hình ảnh, cách dùng từ ngữ, nhưng nhiều nhất qua các câu hỏi tu từ và những câu văn chất chứa căm hờn của một tấm lòng yêu nước thiết tha.
Câu 1: Trang 91 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản.
- Nhận xét nhan đề và tên các phần trong văn bản
- Thuế máu - một thứ thuế lạ, khơi gợi sự tò mò của người đọc, là những thứ thuế nặng nề, vô lí gông vào cổ của nhân dân An Nam. Họ phải dùng cả nước mắt, máu xương, tính mạng của mình để đóng cho đủ những thứ thuế ấy
- Tên của các phần trong văn bản: Chiến tranh và "Người bản xứ" - Chế độ lính tình nguyện - Kết quả của sự hi sinh là quá trình lừa bịp trắng trợn, vắt đến tận xương tủy nhân dân của thực dân Pháp
- Cách đặt tên nhan đề và các phần trong văn bản cho ta thấy được một niềm phẫn uất, căm hận, cả sự bất bình, đau đớn của một người khi chứng kiến cảnh nhân dân, đất nước, quê cha đất tổ bị chà đạp, phỉ nhổ. Đó cũng là cơ sở tiền đề cho những lí luận sắc bén và lời kết tội đanh thép của Bác sau này.
Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm giàu ý nghĩa về mặt chính trị và lịch sử. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là nghệ thuật châm biếm trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật trào phúng và ngòi bút châm biếm sắc sảo đã được thể hiện ở ngay cách tác giả đặt tiêu đề: Thuế máu. Bên cạnh những thứ thuế như thuế rượu, thuế muối, thuế gạo, nhân dân ta thời kì ấy còn phải gánh chịu một thứ thuế kinh khủng, tàn nhẫn hơn, đó là thuế được trả bằng máu. Như vậy, qua tiêu đề vô cùng súc tích, ngắn gọn, người đọc đã hình dung được phần nào về tình cảnh khốn khổ, tội nghiệp của nhân dân ta khi Pháp xâm lược và cai trị. Đồng thời, nhan đề ấy cũng bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân.
Nghệ thuật châm biếm và trào phúng tiếp tục được tô đậm hơn nữa khi tác giả vạch trần những thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân đối với người dân thuộc địa. Trước chiến tranh, họ bị coi là giống người hạ đẳng, là “An- Nam- mít da đen bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của quan cai trị, bị đối xử đánh đập như súc vật. Rồi khi chiến tranh vui tươi bùng nổ, các quan cai trị lập tức đổi thái độ, gọi người bản xứ là: con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Chiến tranh kết thúc, họ lại trở về là thân phận nô lệ ban đầu. Sự tương phản đau đớn ấy đã được thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm sự giả dối, thâm độc của chính quyền thực dân. “Chế độ lính tình nguyện” mang sắc thái trào phúng tự nhiên, ở đây là bắt buộc, cưỡng bức chứ không hề do người dân thuộc địa sẵn sàng, phấn khởi lên đường. Với sự ra đời của chế độ này, chính quyền thực dân tiến hành lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức người ta phải đi lính. Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu, sẵn sàng trói, xích nhốt người ta như nhốt súc vật, đàn áp dã man nếu như có chống đối. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với luận điệu của chính quyền thực dân: hứa hậu đãi sau chiến tranh, rêu rao về sự tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Đó là những chiêu trò lừa dối, mị dân, đểu cáng để che đậy bản chất tàn ác, dã man của chính quyền thực dân khi biến những người dân bản xứ thành vật hy sinh. Bằng lập luận phản bác, mâu thuẫn, trào phúng và câu hỏi tu từ, điệp từ, tác giả tiếp tục lột cái mặt nạ vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Những người dân thuộc địa sau khi trở về từ chiến tranh bị tước đoạt hết của cải, bị đối xử, đánh đập thô bỉ như súc vật. Họ lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu: giống người hạ đẳng và bẩn thỉu, bị lừa dối, áp bức và rơi vào tình cảnh cùng quẫn, trở thành nạn nhân của chính sách cai trị tàn bạo, nham hiểm của Pháp. Sự tráo trở, tàn nhẫn, độc ác đó không chỉ đối với người dân bản xứ mà còn với ngay cả những người Pháp lương thiện. Bằng việc cấp môn bài bán lẽ thuốc phiện, chính quyền thực dân đã đầu độc con người và lôi kéo nạn nhân đáng thương vào tội ác.
Nghệ thuật châm biếm đả kích sâu cay của tác phẩm đã được thể hiện qua những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu ý nghĩa biểu cảm và có ý nghĩa tố cáo. Qua nghệ thuật châm biếm và giọng điệu trào phúng sâu sắc, mỉa mai, ta đã có một cái nhìn cụ thể về bộ mặt độc ác, giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp số phận bi thảm của những người dân thuộc địa bị bóc lột “thuế máu”.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một tác phẩm mà Bác sáng tạo nhằm mục đích để vạch trần, tố cáo chế độ thực dân giả dối, tàn bạo đồng thời khích lệ, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa vùng dậy đấu tranh. Chương I của tác phẩm với nhan đề “Thuế máu” là một chương tố cáo sâu sắc tội ác của bọn thực dân đối với các nước thuộc địa khi chiến tranh xảy tới và một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của “Thuế máu” là nghệ thuật châm biếm, trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật châm biếm, trào phúng là nghệ thuật luôn hướng tới việc tạo ra tiếng cười nhằm để châm biếm, đả kích đối tượng trào phúng. Cách dùng nghệ thuật trào phúng để châm biếm, lên án cái xấu không chỉ có tác dụng vạch trần bản chất đối tượng một cách sâu sắc nhất mà còn khiến cho tác phẩm có giá trị biểu đạt cao, thể hiện được thái độ tác giả.
Trong “Thuế máu”, Người liên tục sử dụng những liên tưởng độc đáo, dùng cách nói trào phúng sắc sảo để lập luận. Ngay trong đoạn đầu, Người đã sử dụng câu từ hết sức châm biếm, không quá cay nghiệt mà vẫn khiến cho kẻ thù phải cay đắng trong cách chỉ ra sự đối lập giữa cách đối xử của thực dân Pháp đối với người dân thuộc địa trước và khi chiến tranh xảy đến: “Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do", tác giả dùng những cách gọi hết sức hình ảnh khi gọi những người dân thuộc địa là những đứa "con yêu", những người "bạn hiền", rồi "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do” làm nổi bật lên sự bịp bợm, xáo trá của thực dân Pháp. Rồi khi nói về số phận của họ: “Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Bancăng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì đã anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mácnơ, hoặc trong bãi lầy miền Sămpanhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Một số phận thật bi đát nhưng theo cách nói của Người, người đọc không bị quá ghê rợm bởi số phận thảm thương của họ mà ghê rợn chính những kẻ đã đẩy những con người nhỏ bé vô tội vào vũng lầy đâu đớn.
Và rất nhiều những đoạn trào phúng gây ấn tượng khác: “Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: vị "chúa tỉnh"- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị "chúa tỉnh"- ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(4) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền” hay “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nêgrô lẫn người "Annamít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Những cách nói trào phúng độc đáo này đã dễ dàng tiếp cận bạn đọc, khiến ai cũng dễ dàng tiếp thu thông điệp mà tác phẩm truyền tải.
Quả vậy, một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của “Thuế máu” là nghệ thuật châm biếm, trào phúng sắc sảo, chính nghệ thuật châm biếm, trào phúng của Bác đã đưa người đọc dễ dàng nhận ra bản chất dối bịp của chế độ thực dân đồng thời làm cho nội dung trở nên hấp dẫn và sức hấp dẫn này sâu đậm mãi về sau.
Theo nhiều công trình nghiên cứu về giọng điệu văn chương trong mấy năm gần đây thì biểu hiện của giọng điệu trong một tác phẩm trước hết là ở cách xưng hô, gọi tên. Đối chiếu trong Vi hành ta thấy ngay giọng điệu chủ đạo của tác phẩm này là giọng mỉa mai bởi đại từ hắn chỉ Khải Định xuất hiện tới 12 lần. Khải Định là vua của một nước đến thăm một nước khác thế mà lại bị người dân nước này gọi là hắn thì thật nhục nhã. Cách gọi này đã vượt qua ranh giới cuối cùng của phép lịch sự ngoại giao tối thiểu để đến với sự khinh miệt. Nếu có gọi là vua thì họ cũng gọi mỉa mai, xách mé là anh vua chứ không gọi một cách trang trọng là vị vua, nhà vua, đức vua và cũng chẳng gọi một cách bình thường, "trung tính" là ông vua. Đáng chú ý là cách gọi ấy không chỉ ở một người, hai người mà ở rất nhiều người: "Những tiếng "hắn đấy!" hay "xem hắn kìa!" là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường". "Thường gặp dọc đường" nghĩa là ở nhiều nơi và gặp nhiều người chứ không phải chỉ ở một hai địa điểm, gặp một số ít người. Điều này chứng tỏ, trong cái nhìn của người dân Pháp, Khải Định không phải là một vị khách mời của nước Pháp, mà ngược lại chỉ là một vật để "xem" cho vui, để chế giễu, để mỉa mai mà thôi.
Nước Pháp lúc bấy giờ (1923) đã sang thời dân chủ với Tổng thống đương nhiệm là Alếchxăng Milơrăng. Thế mà vị Tổng thống này lại bị người kể chuyện (Nguyễn Ái Quốc) gọi một cách cạnh khóe là "Alếchxăng đệ nhất". "Đệ nhất" là danh hiệu dùng để chỉ vua chúa thời phong kiến quân chủ nhưng lại được Nguyễn Ái Quốc dùng để gọi một vị Tổng thống thời dân chủ, có nghĩa là đã coi cả một thể chế dân chủ kia chỉ là giả hiệu, thực chất vẫn chỉ là quân chủ, vẫn là phong kiến chẳng có gì là dân chủ cả. Chỉ bằng hai con chữ tác giả đã hạ bệ, đã vạch trần, đã xé toang bức màn chính trị giả dối để trơ ra bộ mặt không hề dân chủ trơ trẽn giả tạo, không phải chỉ của một người (Tổng thống Pháp) mà còn là của cả một chế độ, một nhà nước (thực dân Pháp). Người ta nói sức mạnh của ngôn từ có khi sánh ngang với một đạo quân lớn. Điều ấy phải chăng đúng với trường hợp này!
Rõ ràng đối tượng trào phúng mà tác phẩm hướng đến là Khải Định và chính quyền thực dân Pháp, tất nhiên, Khải Định vẫn là kẻ bị hứng chịu nhiều nhất những làn roi đả kích quất thẳng vào hắn. Vi hành được viết bằng tiếng Pháp, viết cho người Pháp đọc, dĩ nhiên nó phải mang dấu ấn văn hóa Pháp. Chúng tôi tìm thấy biểu hiện của văn hóa trào phúng dân gian rất phổ biến ở châu Âu trong Vi hành. Đó là văn hóa trào phúng cácnavan. M.Bakhtin đã đưa ra bốn đặc điểm nổi bật của cácnavan: sự xúc tiếp tự do suồng sã giữa người với người; tạo ra những hình tượng "kỳ quặc nực cười", xây dựng những cặp mâu thuẫn trào phúng; và cuối cùng là sự báng bổ, hạ bệ cái đáng cười.
Trong Vi hành các nhân vật đều quan hệ với nhau theo nguyên tắc suồng sã: đôi trai gái - Khải Định (tôi); "tôi" - Khải Định; "tôi" - Tổng thống Pháp, hay thân mật: đôi trai gái; "tôi" - cô em họ. Đôi trai gái nhầm "tôi" là Khải Định nên tha hồ nói về Khải Định rất chi là "suồng sã". Người ta không thể suồng sã với nhau nơi tôn nghiêm mà chỉ có thể ở một nơi, một môi trường có thể suồng sã, cái nơi mà M.Bakhtin gọi là không gian "quảng trường cácnavan". ở một không gian mang tính cộng đồng, "quảng trường" này con người mới dễ dàng tiếp xúc, dễ dàng cười cợt và cũng dễ dàng "báng bổ" nếu có thể. Nguyễn Ái Quốc đã cho Khải Định xuất hiện (trong sự nhầm lẫn của người Pháp) ở những nơi như vậy để người dân Pháp tha hồ mà "suồng sã" với một "anh vua": tiệm cầm đồ, xe điện ngầm, trường đua, nhà hát múa rối, kho hành lý nhà ga... Cácnavan luôn tạo ra những hình tượng "kỳ quặc nực cười", và Khải Định hoàn toàn "xứng đáng" có "bộ mặt nực cười" với "cái mũi tẹt", "đôi mắt xếch", "cái mặt bủng như vỏ chanh". Trong cácnavan, để tạo ra các hình tượng "kỳ quặc nực cười" người ta tạo ra "việc dùng ngược các đồ vật". Ở phương diện này, Khải Định còn "xứng đáng" hơn với "có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn" hay dùng đồ vật không đúng lúc, đúng chỗ "các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn", "đeo lên người... đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm". Khải Định cũng thuộc loại hình tượng phỏng nhại, chúng tôi gọi là hình tượng "phỏng nhại hành vi". Các vị vua yêu nước yêu dân như vua Thuấn hay vua Pie "vi hành" để tìm ra con đường làm giàu cho dân cho nước, còn Khải Định cũng "vi hành" nhưng là ngược lại (bị nhại lại) để ăn chơi bừa bãi…
Vẫn theo M.Bakhtin, "rất tiêu biểu cho tư duy cácnavan là những hình tượng cặp đôi, được nhóm lại theo sự tương phản (…) và sự tương đồng (…)". Chúng ta thấy trong Vi hành có những "cặp đôi" sau: đôi trai gái; "tôi" và Khải Định; Khải Định và chính quyền Pháp; "tôi" và "cô em họ", "tôi" và những kẻ theo dõi "bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng". Trong đó "cặp", "tôi" và Khải Định vừa tương phản vừa tương đồng, tương đồng ở chỗ người dân Pháp (và cả chính quyền Pháp hết sức quan liêu) lẫn lộn "tôi" và Khải Định (vì giống nhau - đều là người An Nam). Tương phản thì bạn đọc dễ nhận ra: một "anh vua" bán nước và một người dân yêu nước đang đi tìm đường cứu nước; một kẻ ăn chơi đàng điếm ngu ngốc (Khải Định không biết về văn hóa Pháp) và một trí tuệ lớn ("tôi" rất giỏi tiếng Pháp, am hiểu sâu sắc lịch sử, văn hóa Pháp…).
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy toát lên các cặp mâu thuẫn trào phúng sau: cái thiêng liêng (vua Thuấn, vua Pie vi hành) với cái thấp hèn (việc Khải Định "vi hành"); sự sang trọng tôn nghiêm (danh hiệu vua) với sự cười đùa, cợt nhả (Khải Định như thằng hề); trí tuệ sắc sảo (của "tôi") với sự ngu dốt (của Khải Định); sự nghiêm túc, lịch sự (nhà vua một nước sang thăm nước khác) với cái phàm tục (Khải Định "vi hành" lén lút)… Đây cũng chính là những cặp mâu thuẫn trào phúng cơ bản của cácnavan.
Sự báng bổ cácnavan được biểu hiện cụ thể trong Vi hành là ở lời văn mỉa mai. Trong tác phẩm đầy những sự nói mỉa, nói ngược, chơi chữ, so sánh, tương phản, nói vòng… với mục đích trào phúng. Nói mỉa để châm chọc. Lời văn hướng tới đả kích nhiều đối tượng. Trong 3 câu văn ngắn sau: "Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. Nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì...", ít nhất có mấy đối tượng sau bị đưa ra để nhạo báng, cười cợt: xã hội Pháp (lúc bấy giờ) thật nhạt nhẽo, vô vị (kho giải trí sắp cạn ráo…); Nhà băng Đông Dương thật nghèo túng (sắp cạn ráo như B.Đ.D); báo chí "bôi bác" (nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy); và Khải Định thì như một trò giải trí, trò tiêu khiển… Thậm chí chỉ trong một mệnh đề của câu văn dài: "Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình..." thì chân tướng của cả "chính phủ" và khách bị lột trần: khách chẳng ra gì và "chủ nhà" cũng thật chẳng ra gì! Câu văn giằng co trong thế mâu thuẫn, tương phản: "... có được sung sướng, có được quyền uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện..."; "Những tiếng "hắn đấy!" hay "xem hắn kìa!" là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng…". Và chơi chữ: "Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?". Theo chúng tôi bản dịch của Phạm Huy Thông đã truyền được cái thần thái trào phúng từ bản phiên âm tới bạn đọc. Nhiều người giỏi tiếng Pháp đều công nhận giữa hai bản phiên âm và bản dịch, tinh thần trào phúng không xa nhau bao nhiêu. (Có lẽ nên coi đây là một trong những bản dịch mang tính mẫu mực về đảm bảo ba tiêu chuẩn: tín, đạt, nhã trong dịch thuật). Trong câu văn tương phản trên được cấu trúc rất tinh tế với chữ "ngài" được đặt giữa câu văn như bị co kéo giữa hai tình huống đối lập: làm một ông vua to và nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé, đã bật ra ý mỉa mai, nói theo một phương ngữ người Việt, "no cơm ấm cật, giậm giật mọi nơi". Trong câu văn còn thể hiện một cách chơi chữ tinh quái với danh từ "công tử bé" (petit duc) bởi danh từ này làm bạn đọc liên tưởng đến danh từ "đại công tước" (grand duc). Mà "đại công tước (grand duc) trong tiếng Pháp cũng có nghĩa là những kẻ ăn chơi bừa bãi. Ý vị hài hước dí dỏm toát ra: Khải Định đã là một ông vua to rồi, chẳng muốn làm những kẻ ăn chơi "to" nữa, thôi thì "nếm thử cuộc đời" của những kẻ ăn chơi "bé" vậy! Rồi cách nói vòng, trong đoạn gần cuối: "Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ... khi được đối đãi như thế?" là sử dụng cách nói vòng rất hay gặp trong truyện cười dân gian Việt Nam. Nếu nói thẳng ra: Chính phủ bèn phái mật thám đi theo dõi gắt gao mọi người An Nam, thì chất muối hài trào phúng sẽ không còn. Phải cho câu văn "vòng vèo" để tác giả "chêm" vào những lời nói mỉa: "Chính phủ bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa...". "Các vị bám lấy đế giày tôi...". Cách nói vòng đã mang hiệu quả nghệ thuật lưỡng tính: vừa tránh nói sự thật (nhưng người đọc vẫn hiểu sự thật) để lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc "tò mò" đi theo mạch văn "vòng vèo" này; vừa tạo ra khoảng trống để nhà trào phúng "cài" vào đấy những tiếng cười ngộ nghĩnh khác. Và so sánh:
"- Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô; hôm nay chúng mình có mất ít tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy...".
So sánh "vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên", "tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô" với "vua" thì có nghĩa là đã "đánh đồng", đã "cào bằng" "vua" cũng chỉ ngang hàng với bọn "vợ lẽ nàng hầu..." và "tụi làm trò..." kia mà thôi. Thậm chí "giá trị" của "vua" còn rẻ mạt hơn bởi xem "vợ lẽ nàng hầu..." và "tụi làm trò..." còn mất "những nghìn rưởi phrăng", còn xem "vua" thì chẳng "mất tí tiền nào". Chính vì thế mà câu văn "Nghe ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy..." có mặt một cách thật lô gích, tự nhiên, hợp lý. Đã gọi là "ông bầu" thì bao giờ cũng phải sành sỏi thương trường và thị hiếu công chúng. "Ông bầu Nhà hát Múa rối" đã nhận ra ngay một cơ hội kiếm tiền vừa "thuê" rẻ một con rối, con hề là Khải Định vừa làm thỏa mãn trí tò mò của công chúng Pháp. Chỉ bằng mấy câu văn có sử dụng phép so sánh đối chiếu mà con người Khải Định hiện ra thật thê thảm. Phép so sánh như một luồng gió mạnh thổi tắt, thổi bay những ánh hào quang từ những nào là vương miện, long bào rồi hoàng bào… của vị "hoàng đế An Nam" để chỉ còn trơ ra chân dung một… con rối "vua" ngờ nghệch, lố bịch. Chúng tôi gọi đó là cách so sánh "lột mặt nạ"!
Chúng tôi cho rằng tiếng cười trào phúng trong Vi hành mang một tầm phổ quát, dân chủ và sâu sắc, nhạo báng, đả kích sâu cay Khải Định và thực dân Pháp. Vi hành ra đời đúng vào dịp vua Khải Định được Chính phủ Pháp đưa sang dự cuộc đấu xảo thuộc địa tổ chức ở Mácxây. Tác phẩm mượn các đặc điểm của lễ hội cácnavan để xây dựng nên một câu chuyện "vi hành" (đây có lẽ là hiện tượng mà M.Bakhtin gọi là các cácnavan hóa - carnavalizacija), mà cácnavan tức là lễ hội cải trang, lễ hội trá hình, thế có nghĩa là tác giả đã coi cả một cuộc đấu xảo thuộc địa rầm rộ kia cũng chỉ là một lễ hội cácnavan cải trang, trá hình mà thôi. Bộ mặt thật của chính quyền Pháp bị Nguyễn ái Quốc lật tẩy: đó chỉ là một chính phủ mị dân, một chính phủ lừa dối.
Để cười được cái đáng cười, người cười bao giờ cũng phải đứng ở tầm cao hơn cái đáng cười. Nguyễn Ái Quốc đã thực sự ở một vị thế cao hơn rất nhiều cái thể chế chính trị thực dân Pháp và "bề tôi" Khải Định để mà cười, một cái cười của chính nghĩa cao cả của trí tuệ siêu việt cười vào sự phi nghĩa, giả dối, sự ngu ngốc thảm hại. Xét riêng ở góc độ trào phúng, Vi hành xứng đáng là một tác phẩm "vô tiền khoáng hậu" độc đáo, đặc sắc, mẫu mực về sự kết hợp tinh hoa trào phúng phương Đông và phương Tây
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau :
- Xây dựng, đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
- Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
- Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
- Giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai để nói lên bản chất bọn thực dân: “Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu...”, đùng một cái... được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”