Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
bé Thùy chạy tới giường ôm tôi và anh chàng vệ sĩ.Mắt Thủy ầng ậng nước mắt .Chắc là chị Thủy buồn lắm.Bỗng từ xa ba mẹ chỉ xuất hiện .Một tin vui thật hạnh phúc.Ba nói:ba đã nghĩ kĩ rồi,ba ko muốn vì bà mẹ mà các con chịu khó.nên ba mẹ sẽ ko lí hơn nữa.cả nhà chị ôm nhau dưới bóng chiều dần lan xuống. TÍCH CHO MÌNH NHA
Kết thúc của văn bản Lão Hạc là cái chết đột ngột và bất ngờ của lão, và ít ai biết được lí do. Lão dùng bã chó để chết bởi vì lão thấy có lỗi với cậu Vàng _ ***** của lão. Vì quá túng thiếu, và không muốn đụng vào tài sản ( lão muốn để lại cho người con trai ) nên lão buộc phải bán con chó, con vật thân thiết với lão từ khi người con trai ra đi. Lão luôn để dành tiền để con lão cưới vợ vì lão rất yêu con của mình, lão sợ mỗi khi lão đau ốm bệnh tật phải tốn tiền mua thuốc , tốn tiền ăn uống mỗi ngày.
Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Lão Hạc vẫn còn cách để duy trì sự sống. Nhưng nếu làm thế nghĩa là ăn vào vốn liếng để dành cho con. Lão đã tự chọn cái chết để bảo toàn căn nhà, mảnh vườn ấy. Lão lại còn lo mình gây phiền hà cho hàng xóm. Như thế, cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao, từ lòng tự trọng đáng kính.
=> Đọc kĩ văn bản truyện ta sẽ thấy, cái gọi là "sự tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến" thực sự khá mờ nhạt, chỉ được thể hiện qua chi tiết thằng con trai lão Hạc phải đi phu đồn điền. Những người sống xung quanh lão, trong đó có ông giáo và vợ ông cùng bà con làng xóm, đều là những người tốt. Họ chưa biết quan tâm và yêu thương những người khổ cực vì họ cũng là những người cực khổ để vật lộn mưu sinh. Chế độ phong kiến không quan tâm nhiều đến nhân dân, vua chúa chỉ nghĩ đến bản thân mình. Vật chất và tinh thần của người dân không được ai chú tâm đến, người dân nghèo khổ, đói chết cũng không là vấn đề của những người bề trên.
Chúc bn hok tốt!
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán ***** đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp ***** là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của Lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người Lão Hạc. Nhân vật Lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.
Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với Lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết Lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”. Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như Lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.
Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của Lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về Lão Hạc và người nông dân... “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.
Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.
Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.
Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.
Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của Lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu ...
Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc...
Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.
Đề bài :
trong truyện lão hạc của nam cao có đoạn
hôm sau lão hạc sang nhà tôi .Vừa thấy tôi lão bảo ngay
Cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ
Cụ bán rồi ?
lão cố tỏ ra vui vẻ Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước mắt .Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc ...
qua chi tiết đó nêu suy nghĩ về lão hạc
Vì sao việc mua bán con vàng lại dằn vặt lão như vậy? Bởi lẽ con vàng là kỉ vật của đứa con thân yêu. Cậu con trai của lão hạc vì nghèo, bị nhà gái khinh khi, thách cưới nặng đã thất tình, từ giã cha đi vào nam làm phu đồn điền cao su cho thực dân pháp. Nhìn con vàng, lão nghĩ đến chuyện con của lão mua về nuôi để đến lúc cưới vợ thì giết làm thịt.... Mặt khác, trong cảnh sống cô đơn, thui thủi nơi quê nghèo, lão hạc rất quý con vàng, xem nó là một người bạn thân, một đứa con, một đứa cháu yêu. Lão hạc thường nựng đó, gọi một cách trìu mến: cậu vàng.
Lão hạc là một con người có tấm lòng thương yêu bao la con người và loài vật nên không đành lòng bán cậu vàng. Nghĩ đến chuyện bán con vàng, lòng lão hạc se lại, lương tâm bị cắn rứt.
Thế nhưng, vì lẽ gì lão hạc phải bán con vàng? Chúng ta biết rằng, lão hạc là người nghèo khổ, nuôi bản thân mình còn chưa đủ, huống chi là nuôi thêm con vàng ăn khỏe. Lão không đủ tiền nuôi nó. Nếu cho nó ăn ít thì thật tội nghiệp làm sao! Hơn nữa, con vàng sẽ gầy đi, bán hụt tiền. Ngoài ra, lão hạc đề phòng xa, nếu lão chêt rồi thì phải có tiền lo ma chay không phải làm luỵ phiền đến láng giềng. Một lí do nữa, là sọ' tiêu xài hết phần tiền bòn vườn. Số tiền nhỏ nhoi ấy, lão phải chắt chiu dành dụm đê khi con trở về sẽ có tiền cưới vợ.
Chính vì các nguyên nhân trên mà lão hạc đi đến quyết định bán cậu vàng. Qua những chi tiết đó, chúng ta thấy lão hạc là một con người nghèo vật chất nhưng giàu tình cảm và giàu lòng tự trọng. Lão hạc rất đau lòng vì con trai không được hạnh phúc trên bước đường tình. Lão hạc sẵn sàng kết liễu tính mạng mình để cho con giảm bớt gánh nặng của kiếp nghèo. Mặt khác, lão hạc từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão biết rằng ông giáo là người cùng hoàn cảnh với mình. Lão âm thầm tìm đến cái chết bi thảm bằng bả chó trong sự ngạc nhiên của mọi người. Hàng xóm không bao giờ thấy mình bị lão làm phiền. Trái lại, họ rất thương yêu, xót xa trước sự ra đi vĩnh viễn của lão.
Lão hạc không như một số nhân vật khác trong truyện của nam cao. Chí phèo trong truyện chí phèo từ một anh nông dân hiền lương, bỗng phút chôc biến thành con quỷ dữ của làng vũ đại. Chí phèo chuyên nhậu say be bét rồi rạch mặt ăn vạ làm khổ xóm làng. Thậm chí, chí phèo bán cả linh hồn và diện mạo của mình chỉ vì rượu. Xã hội và mọi người chối bỏ, không cho chí phèo làm người lương thiện. Hắn đau đớn vật vã rồi tự kết liễu cuộc đời mình sau khi đâm chết kẻ thù là bá kiến. Chí phèo chết đi làm cho mọi người thở phào nhẹ nhõm vì trút được mối lo bị quấy rầy, phiền phức. Binh chức hay năm thọ không chịu nổi thiếu thốn vật chất, sẵn sàng đi ăn trộm, cướp giật, bán cả nhân cách, sống trong sự dè bỉu, khinh rẻ của mọi người. Ngay đến cả bà cái ***** trong truyện một bữa no của nam cao tuy là con người lương thiện, rất yêu thương con cháu nhưng không chịu được cái đói cào cấu ruột gan đã chịu hạ mình kiếm sống trước sự hắt hủi,lăng nhục của mụ phó thụ. Sau đó, vì ăn quá no đã chết trong ánh mắt xem thường của bọn nhà giàu này.
Có thể nói rằng, lão hạc là một hình tượng đẹp trong đau khổ. Càng sống trong đau khổ, nhân cách của lão hạc càng rực sảng lạ thường.
Tóm lại, trong nền văn học việt nam hiện đại, có rất nhiều tác phẩm văn xuôi viết về tình mẹ con làm rung động biết bao con tim. Thế nhưng, số lượng tác phẩm viết về tình phụ tử hãy còn khiêm tốn, dè dặt. Bởi vậy, truyện ngắn lão hạc của nhà văn nam cao đã giúp chúng ta cảm và hiểu một cách sâu sắc hơn về tấm lòng của người cha đối với con, đồng thời nuôi dưỡng, bồi đắp cho tâm hồn chúng ta những tình cảm lành mạnh, thiêng liêng, bất tử. Ngoài ra, tác phẩm lão hạc còn gợi cho chúng ta thêm nhiều suy nghĩ về một nhân sinh quan đẹp đẽ, cao thượng mà nhà văn nam cao đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật lão hạc. Chúng ta hãy sàng lọc và phát triển nhân sinh quan ấy thêm một bước nữa trong cuộc đời thực.
Trả lời
Lão Hạc là 1 người nông dân nghèo . Vợ lão mất sớm để lại 1 đứa con trai và mảnh vườn nhỏ cùng ***** Vàng. Con trai lão lớn lên không có tiền cưới vợ bèn đi đồn điền cao su. Chỉ còn cậu Vàng với lão nên lão dành hết tình thương nhớ con vào cậu. Nhưng thật đáng thương vì lão phải bán cậu vàng đi rồi đem số tiền dành dụm cho con mình sang gửi Ông Giáo - 1 người bạn hàng xóm thân của lão. Rồi sau đó lão sang nhà Binh Tư xin 1 ít bả chó. Khi nghe Binh Tư kể lại chuyện đó thì ông Giáo rất buồn và nghĩ ngợi tại sao 1 người như lão Hạc lại như vậy. Nhưng sau đó lão Hạc lại chết , chết một cách rất đau đớn. Chỉ có Binh Tư và ông Giáo mới hiểu rõ cái chết của lão
Chúc bn hok tốt!
Mình làm lại nhé
Lão Hạc là 1 người nông dân nghèo, sống cô độc, chỉ có 1 con cún mà lão gọi là cậu Vàng để làm bạn, Con trai lão do k có tiền lấy vợ nên bỏ đi làm ở đồn điền cao su. Lão phải đi làm thuê làm mướn để kiếm sống. Sau 1 trận ốm dai dẳng lão k còn đủ sức để di làm thuê. cùng đường lão phải bán con cún mà lão rất mực yêu thương. Rồi lão mang số tiền dành dụm được và mảnh vườn sang gửi ông giáo. Sau đó mấy hôm liên lão chị ăn khoai, sung luộc, rau má...Một hôm lão sao nhà Binh tư xin ít bả chó nói là đánh bả con cún nhà nào đó để giết thịt nhưng thực ra lão dùng bả chó để kiết liễu đời mình. Cái chết của lão rất dữ dội,chẳng ai hiểu vì sao lão chết trừ O Giáo và Binh Tư
Sau khi Thủy và mẹ đi rồi, bố về. Thành khóc lóc nằng nặc đòi bố đón mẹ và em gái về. Người bố cả đêm suy nghĩ lời nói của con trai. Sáng hôm sau, bố cùng Thành về quê ngoại đón mẹ và Thủy về nhà. Gia đình đoàn tụ, sống với nhau hạnh phúc
Kết thúc là cái kết có hậu nhé
Sau khi chứng kiến cảnh chia ly đầy đớn đau của 2 đứa con của mình, mẹ của Thành và Thuỷ thực sự rất day dứt. Chỉ vì mâu thuẫn của 2 vợ chồng mà giờ đây, gia đình tan nát, con cái không thể nhận được sự yêu thương trọn vẹn của cả bố lẫn mẹ. Cuối cùng, bà gọi cho chồng và bày tỏ nỗi niềm. Bố của 2 anh em cũng rất xúc động khi bà kể về cuộc chia tay đẫm nước mắt của Thành và Thuỷ. Rồi họ quyết định tái hôn. Nhận được tin này, Thành Thuỷ rất vui mừng vì giờ đây, họ sẽ trở lại một gia đình trọn vẹn và hạnh phúc như trước!
Trong truyện "Cuộc cất cánh của bầy chim chìa vôi non", cuộc cất cánh của bầy chim không đúng như dự đoán của em. Bầy chim đã hạ xuống bên một lùm dứa dại bờ sông. Hai anh em Mên và Mon khóc vì Mon đã nói với Mên rằng bầy chim chìa vôi non có thể bay được vào bờ, cũng có thể không bay được vào bờ. Điều này đã khiến Mên rất buồn và khóc. Tính cách của nhân vật Mon trong câu chuyện là một người lạc quan và hy vọng, vì anh ta luôn tin rằng bầy chim chìa vôi non sẽ bay được vào bờ an toàn.
Ở cuối chuyện ” Lão Hạc” con người hiền lành lương thiện như Lão Hạc đã phải chết đau đớn và dữ dội. Nam Cao đã rất khéo léo trong việc chọn cách kết thúc truyện không có hậu để Lão Hạc phải chết trong sự đau đớn, dằn vặt, nhưng qua cái chết của Lão Hạc giúp cho mọi người hiểu về con người , quý trọng và thương xót lão hơn. Lão Hạc vốn là người nông dân nghèo phải sống khổ sở, tằn tiện để dành dụm tiền và luôn lo lắng cho tương lai của đứa con mình. Đến lúc bị dồn đến đường cùng, đói kém mất mùa liên miên, ốm đau, lão phải đứng trước hai sự lựa chọn: cái sống và cái chết, nếu lão sống thì lão sẽ ăn vào tiền bòn vườn, phải bán vườn hoặc tha hóa như Binh Tư, còn nếu lão chết thì lão sẽ giữ lại được mảnh vườn giữ được tương lai cho con trai. Và cuối cùng lão đã chọn cái chết, lão tự xóa đi sự sống của mình để bảo toàn căn nhà, mảnh vườn với niềm hi vọng con lão sẽ trở về. Đặc biệt hơn lão đã chọn cái chết như cái chết của một con vật, vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc, giật mạnh, vật vã đến 2h rồi mới chết. Qua đó, ta thấy xuất phát trong con người lão là tình yêu thương âm thầm tha thiết, mãnh liệt, lớn lao, một tình thương đầy lòng vị tha và đức tính hi sinh cao cả. Lão là một con người sống có tình có nghĩa, có tấm lòng nhân hậu, thủy chung, trung thực mà thẳng thắn, giàu lòng tự trọng đáng kính. Cái chết của Lão Hạc tuy đau đớn về thể xác nhưng chắc chắn sẽ thanh thản về tâm hồn.
Vì không có tiền để cưới người con gái mình yêu nên anh con trai lão Hạc phẫn chí bỏ làng ra đi, vào tận Nam Kì làm phu ở đồn điền cao su đất đỏ. Biển biệt suốt mấy năm trời, tích cóp được ít tiền, nay anh mới trở về quê.
Về tới đầu làng, anh thấy cảnh xóm làng tuy vẫn còn xơ xác, tiêu điều vì trận đói khủng khiếp vừa qua nhưng khí thế cách mạng của bà con nông dân thì sội nổi lắm. Tiếng trống, tiếng mõ vang rền. Các kho thóc của phát xít Nhật bị phá tung, cán bộ Việt Minh chia thóc cho dân chúng. Từng đoàn, trai tráng kéo nhau đi rầm rập trên con đê chạy dọc bờ sông, miệng hô to những khẩu hiệu đả đảo Pháp, Nhật, ủng hộ chính quyền cách mạng. Dẫn đầu đoàn người là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới
Quả là một cảnh tượng anh chưa từng được chứng kiến trong đời. Tim anh đập rộn lên khi đặt chân về đến rặng tre đầu ngõ. Khu vườn quen thuộc đây rồi! Ba gian nhà tranh cũ kĩ, xiêu vẹo, im lìm đứng giữa vườn cây xơ xác. Lối vào nhà và miếng sân đất um tùm cỏ dại.
Anh cất tiếng gọi cha, không một lời đáp lại. Nhấc chiếc cửa liếp ra, anh ngó vào trong: mạng nhện chăng đầy; nắng chiếu qua lỗ thủng trên mái rạ, in trên mặt đất gồ ghề những vệt sáng không đều. Không khí lạnh lẽo và mùi ẩm mốc xông lên khiến anh bất chợt rùng mình. Anh sang nhà ông giáo để hỏi thăm về người cha già yếu của mình.
Ông giáo Tri, người hàng xóm thân cận pha nước mời anh uống rồi khuyên anh hãy bình tĩnh nghe ông kể về những ngày cuối đời của người cha tội nghiệp:
-Từ hôm anh đi, ông cụ buồn lắm! Sớm tối chỉ cỏ con chó Vàng quanh quẩn bên ông cụ mà thôi. Cả tổng đói, cả làng đói. ông cụ đứt bữa thường xuyên, Thôi thì kiếm được cái gì ăn cái nấy cho qua ngày. Thỉnh thoảng sang bên tôi chơi, ông cụ cứ tự trách mình vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, để con phải lưu lạc tha phương kiếm sống. Một buổi chiều, ông cụ nhờ tôi trông coi hộ mảnh vườn ba sào để sau này anh về thì có sẵn đất đấy mà làm ăn. Ông cụ còn gửi tôi giữ giùm ba mươi đồng bạc dành dụm từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn suốt mấy năm qua vả tiền bán con chó Vàng. Khốn khổ! Nhắc đến chuyện phải buộc lòng bán nó vì không nuôi nổi nữa, ông cụ cứ khóc vì ân hận là đã lừa nó. Ông cụ bảo thà chết chứ không bán mảnh vườn của mẹ anh để lại cho anh.
Tôi có ngờ đâu ông cụ lại chọn cái chết, ông cụ xỉn Binh Tư ít bả chó. Lúc thấy ồn ào, tôi chạy vội sang thì ông cụ đang quằn quại. Chẳng thể làm thế nào cứu được nữa! Số tiền ông cụ gửi, tôi chỉ một ít lo ma chay, chôn cất ông cụ; số còn lại, tôi vẫn giữ đây chờ anh về. Lát nữa, tôi sẽ dẫn anh ra thăm mộ ông cụ. Ôi Chao! Trên đời này, thật hiếm có người cha nào thương con như thế!
Anh con trai lão Hạc ngồi lặng đi, hai hàng nước mắt lăn dài trên má. ông giáo lấy văn tự nhà đất cùng túi tiền cất ở trên bàn thờ xuống, đưa cho anh. Anh run run đưa tay ra đón lấy rổi nghẹn ngào thốt lên hai tiếng: “Cha ơi!”.
Thắp mấy nén nhang cắm lên nấm mộ chưa xanh cỏ, anh thổn thức tâm sự với người cha mà anh hằng yêu quý và thương nhớ: “Cha ơi! Con là đứa con bất hiếu, không đỡ đần được gì cho cha lúc tuổi già sức yếu! Con mong cha tha thứ cho con! Con lầm tưởng là bỏ làng ra đi thì sẽ dễ dàng kiếm được tiền, nhưng ở đâu dân mình cũng cơ cực, cha ạ! Trong những ngày làm phu cạo mủ cao su ở đồn điển của lũ chủ Tây ở đất Đổng Nai, con đã được cán bộ cách mạng giác ngộ, chỉ cho con đường đúng nên theo, về làng lần này, con những mong được gặp lại cha, để cha mừng cho con đã trưởng thành. Nào ngờ buổi chia tay cũng là vĩnh biệt!”.
Anh con trai lão Hạc chỉ ở nhà được mấy hôm. Anh dọn dẹp nhà cửa, vườn tược gọn gàng rồi nhờ ông giáo tiếp tục trông nom. Trước lúc ra đi, anh chào và cảm ơn khắp lượt bà con hàng xóm đã giúp đỡ cha anh lúc anh vắng nhà. Ông giáo tiễn anh ra tới dầu làng, vắt chiếc tay nải đựng quần áo lên vai, anh rảo bước về phía nhà ga. Mặt trời đã lên cao, tiếng còi tàu giục giã ngân dài trong gió.