Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Đoạn thơ trên sử dụng phương thức miêu tả và tự sự.
+ Miêu tả: không gian, màu sắc, ánh sáng tươi đẹp, đặc trưng của mùa xuân.
+ Tự sự: Kể về sự việc, sự vật trong những ngày tháng 3 - tiết Thanh Minh, thời gian trôi nhanh, sắp kết thúc mùa xuân.
“Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng bút pháp gợi tả và biện pháp nhân hóa.
Trên nền trời xanh lam trong sáng của chiều xuân được điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê.
+ Chữ “trắng”được đảo lên trước tạo sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết, kết tinh những tinh hoa của trời đất.
+ Chữ “điểm” nhấn mạnh, gợi hình ảnh bàn tay người họa sĩ tạo nên những điểm chấm phá cho bức tranh cảnh mùa xuân.
→ Câu thơ đắt giá, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên bình dị, trong trẻo và giàu sức sống của mùa xuân.
Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Với bút pháp miêu tả kết hợp với hình ảnh chọn lọc “con én đưa thoi”, tác giả đã gợi ra trước mắt người đọc giữa bầu trời cao, trong xanh, mênh mông, là hình ảnh những cánh chim én bay lượn vút qua vút lại như thoi đưa. Câu thơ vừa gợi liên tưởng tới cánh én chao liệng trên bầu trời xuân, vừa cho thấy thời gian mùa xuân chảy trôi nhanh quá, như thoi đưa. “Chim én” là loài chim đặc trưng của mùa xuân, thường xuất hiện khi mùa xuân về. Ở đây, tác giả còn sử dụng biện pháp ẩn dụ, những cánh én được so sánh ngầm với hình ảnh con thoi để diễn tả thời gian ngày xuân đang trôi nhanh, mới đó mà đã bước sang tháng ba. Trong bức tranh xuân đó, ngoài hình ảnh của chim én, tác giả còn chọn ánh thiều quang để miêu tả cảnh mùa xuân. “Thiều quang” là ánh sáng hồng, rạng rỡ, ấm áp của mùa xuân. Như vậy, Nguyễn Du đã làm nổi bật được bức tranh mùa xuân tươi đẹp, có màu hồng của ánh nắng xuân, có sự ấm áp của khí xuân và có sự mênh mông của đất trời.
Ngoài ra, để tô điểm cho bức tranh xuân đó, tác giả còn miêu tả màu sắc tươi xanh của cỏ non và sắc trắng tinh khôi của bông hoa lê, tạo cho bức tranh sinh động:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được họa nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la. Sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn, mềm mượt êm ái. Huống chi, cái sắc ấy trải ra tận chân trời khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy, điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ vài bông thôi bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím còn chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ “điểm” có tác dụng gợi vẻ đẹp sinh động, hài hòa. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp hội họa của phương Đông đó là bút pháp chấm phá để miêu tả bức tranh nhiên nhiên mùa xuân.
Câu thơ trở thành một bức họa đầy màu sắc tươi tắn. Trên nền xanh của cỏ biếc trải dài lan rộng như một tấm thảm tới tận chân trời được điểm xuyết bằng một vài bông hoa lê màu trắng gọi cho người đọc thấy được cảnh mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả và tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên của Nguyễn Du.
ngày xuân con én đưa thoi
thiều quang chín chục đã ngoài 60
cỏ non xanh tận chân trời
cành lê trắng điểm môỵ vài bông hoa
Trả lời
a, Hình như không có
b,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ý nghĩa
Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.
- Đoạn thơ trên sử dụng phương thức miêu tả và tự sự.
+ Miêu tả: không gian, màu sắc, ánh sáng tươi đẹp, đặc trưng của mùa xuân.
+ Tự sự: Kể về sự việc, sự vật trong những ngày tháng 3 – tiết Thanh Minh, thời gian trôi nhanh, sắp kết thúc mùa xuân.
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Câu thơ mở ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với hình ảnh cỏ non xanh mướt tới tận chân trời và hoa lê đang bắt đầu nở khi xuân sang. Bức tranh có sự hài hòa đến tuyệt diệu. Màu trắng tinh khôi của hoa lê hòa cùng với màu xanh non mỡ màng của cỏ. Không gian rộng lớn bạt ngàn ngút ngàn với những bãi cỏ “rợn chân trời” kết hợp với không gian thu nhỏ trên một cành hoa xuân. Tất cả gợi lên một sức sống tràn đầy, một bầu khí quyển trong trẻo, nên thơ, dịu nhẹ của tiết thanh minh. Xuân về khoác áo xanh cho cỏ, mặc áo trắng cho hoa. Cỏ và hoa bừng dậy sau giấc ngủ đông dài lạnh lẽo để rồi cỏ non nối tiếp chân trời xanh, và hoa lê bừng sắc trắng trên cành. Còn gì đẹp hơn thế, còn gì trong trẻo hơn thế! Câu thơ của Nguyễn Du làm ta chợt nhớ tới câu thơ của thi nhân Ức Trai ngay trước :
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên)
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Cùng đặc tả màu xanh của cỏ nhưng mỗi thi nhân lại có cảm nhận rất khác nhau. Nếu đến với thơ Nguyễn Trãi, cỏ dưới làn mưa xuân giăng nhè nhẹ “xanh như khói” thì trong thơ của Nguyễn Du màu xanh của cỏ vẫn vẹn nguyên có cảm giác như cỏ nối liền chân trời tạo làm không gian được mở rộng tới vô cùng. Đó phải chăng chính là sức hấp dẫn của thơ ca, cùng viết một hình ảnh nhưng ở mỗi một bài thơ, qua những lăng kính nhìn khác nhau sẽ đem đến những cách cảm nhận riêng biệt, không trộn lẫn.
Câu thơ của Nguyễn Du được lấy tứ từ câu thơ cổ Trung Hoa:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp có màu sắc, có đường nét đặc biệt lại có cả hương thơm. Đó là hương thơm của cỏ non “phương thảo”. Đó là màu xanh mướt của cỏ nối liền với trời xanh “liên thiên bích”. Đó còn là đường nét của cành lê điểm nhẹ vài bông hoa mới nở “sổ điểm hoa”. Câu thơ của Nguyễn Du rất gần với tứ của câu thơ này. Nhưng chúng có nét giống nhau chứ không hề đồng nhất. Nguyễn Du đã có những sáng tạo của riêng mình để đem lại sức hấp dẫn cho câu thơ của Truyện Kiều. Nếu như câu thơ cổ Trung Hoa chỉ miêu tả một cách đơn thuần: cành lê có một vài bông hoa thì câu thơ trong Truyện Kiều lại nhấn mạnh màu sắc của hoa “trắng điểm”. Ở đây tính từ “trắng” đã được động từ hóa, câu thơ không chỉ nói lên màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy. Câu thơ không hề tĩnh tại mà có tính chất động. Chúng ta không chỉ cảm nhận được một màu trắng tinh khôi của hoa lê mà còn dường như thấy được cả những mạch sống đang cựa mình trỗi dậy theo bước chuyển mình của mùa xuân. Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ đôi câu thơ nhưng cũng đủ cho ta thấy sự sáng tạo, sức bút kì diệu của thiên tài Nguyễn Du. Đó phải chăng chính là một trong những yếu tố làm nên sức sống bất diệt của Truyện Kiều,Truyện Kiều của Nguyễn Du nằm ngoài sự “băng hoại” của thời gian.
- Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng bút pháp gợi tả và biện pháp nhân hóa.
- Trên nền trời xanh lam trong sáng của chiều xuân được điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê.
• Chữ “trắng” được đảo lên trước tạo sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết, kết tinh những tinh hoa của trời đất.
• Chữ “điểm” nhấn mạnh, gợi hình ảnh bàn tay người họa sĩ tạo nên những điểm chấm phá cho bức tranh cảnh mùa xuân.
⇒ Câu thơ đắt giá, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên bình dị, trong trẻo và giàu sức sống của mùa xuân.
Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Với bút pháp miêu tả kết hợp với hình ảnh chọn lọc “con én đưa thoi”, tác giả đã gợi ra trước mắt người đọc giữa bầu trời cao, trong xanh, mênh mông, là hình ảnh những cánh chim én bay lượn vút qua vút lại như thoi đưa. Câu thơ vừa gợi liên tưởng tới cánh én chao liệng trên bầu trời xuân, vừa cho thấy thời gian mùa xuân chảy trôi nhanh quá, như thoi đưa. “Chim én” là loài chim đặc trưng của mùa xuân, thường xuất hiện khi mùa xuân về. Ở đây, tác giả còn sử dụng biện pháp ẩn dụ, những cánh én được so sánh ngầm với hình ảnh con thoi để diễn tả thời gian ngày xuân đang trôi nhanh, mới đó mà đã bước sang tháng ba. Trong bức tranh xuân đó, ngoài hình ảnh của chim én, tác giả còn chọn ánh thiều quang để miêu tả cảnh mùa xuân. “Thiều quang” là ánh sáng hồng, rạng rỡ, ấm áp của mùa xuân. Như vậy, Nguyễn Du đã làm nổi bật được bức tranh mùa xuân tươi đẹp, có màu hồng của ánh nắng xuân, có sự ấm áp của khí xuân và có sự mênh mông của đất trời.
Ngoài ra, để tô điểm cho bức tranh xuân đó, tác giả còn miêu tả màu sắc tươi xanh của cỏ non và sắc trắng tinh khôi của bông hoa lê, tạo cho bức tranh sinh động:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được họa nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la. Sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn, mềm mượt êm ái. Huống chi, cái sắc ấy trải ra tận chân trời khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy, điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ vài bông thôi bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím còn chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ “điểm” có tác dụng gợi vẻ đẹp sinh động, hài hòa. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp hội họa của phương Đông đó là bút pháp chấm phá để miêu tả bức tranh nhiên nhiên mùa xuân.
Câu thơ trở thành một bức họa đầy màu sắc tươi tắn. Trên nền xanh của cỏ biếc trải dài lan rộng như một tấm thảm tới tận chân trời được điểm xuyết bằng một vài bông hoa lê màu trắng gọi cho người đọc thấy được cảnh mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả và tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên của Nguyễn Du.