Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 8: Xác định lời dẫn trong đoạn thơ sau:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
A Vân Tiên ghé lại bên đàng,
B Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
C Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”.
C “Bớ đảng hung đồ, chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Câu 9: Giải thích vì sao trong hội thoại, đôi khi người nói phải dùng cách nói như: “đừng nói leo, đừng ngắt lời như thế”. (VD)
AVì khi người nói chuẩn bị hỏi về một vấn đề không đúng vào đề tài đang trao đổi, tránh để người nghe hiểu mình không tuân thủ phương châm quan hệ
B Vì báo hiệu cho người nghe (đối thoại) biết là người đó đã không tuân thủ phương châm lịch sự và phải chấm dứt sự không tuân thủ đó
C Vì giảm nhẹ sự tổn thương đối với người đối thoại và tuân thủ phương châm lịch sự
C Vì báo hiệu cho người nghe (đối thoại) biết là người đó đã tuân thủ phương châm lịch sự và không cần chấm dứt sự tuân thủ đó
Câu 10: Bộ phận in nghiêng trong câu sau là lời nói hay ý nghĩ, dẫn trực tiếp hay gián tiếp: “Nhưng chớ hiểu nhầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật”.
A Lời nói, dẫn trực tiếp
B Ý nghĩ, dẫn trực tiếp
C Ý nghĩ, dẫn gián tiếp
D Lời nói, dẫn gián tiếp
Câu 11: Giải thích vì sao trong hội thoại, đôi khi người nói phải dùng cách nói như: “Xin lỗi, biết là làm anh không vui, nhưng tôi nói điều này có gì không phải mong anh bỏ qua cho.” (VD)
A Vì để giảm nhẹ sự tổn thương đối với người đối thoại -> tuân thủ phương châm lịch sự
B Vì khi người nói chuẩn bị hỏi về một vấn đề không đúng vào đề tài đang trao đổi, tránh để người nghe hiểu mình không tuân thủ phương châm quan hệ
C Vì báo hiệu cho người nghe (đối thoại) biết là người đó đã không tuân thủ phương châm lịch sự và phải chấm dứt sự không tuân thủ đó
D Vì báo hiệu cho người nghe (đối thoại) biết là người đó đã tuân thủ phương châm lịch sự và không cần chấm dứt sự tuân thủ đó
I. Mở bài
- Vài nét về tầm quan trọng của Nguyễn Đình Chiểu đối với nền văn học Nam Bộ nói riêng và nền văn văn học dân tộc nói chung: Một nhà thơ, một người chiến sĩ mù khiến chúng ta cảm phục, một ngôi sao sáng nhất trên bầu trời Nam Bộ
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên và đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga: Đây là tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích đã khắc họa thành công hai nhân vật trung tâm của tác phẩm với nhiều phẩm chất tốt đẹp.
II. Thân bài
1. Hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên
- Lục Vân Tiên là nhân vật chính của tác phẩm.
- Là chàng trai tài, giỏi, cứu cô gái thoát khỏi tình huống nguy hiểm.
- Chàng trai ấy vừa rời trường học, muốn thi thố lập công danh nhưng gặp phải bọn cướp hãm hại dân lành liền hành hiệp trượng nghĩa.
- Đối đầu với lũ cướp rất đông với gươm giáo sáng ngời, dù không một tấc sắt trong tay Lục Vân Tiên vẫn dũng cảm đánh cướp.
- Lục Vân Tiên bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng giúp đời và tấm lòng vị nghĩa => một người “vị nghĩa vong thân”.
- Đối xử với Kiều Nguyệt Nga rất chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, rất nhân hậu và có văn hóa:
+ Thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, Vân tiên “động lòng” an ủi, ân cần hỏi han.
+ Chàng nghĩ cho thân phận nữ nhi của Kiều Nguyệt Nga.
+ Khi Kiều Nguyệt Nga mong muốn trả ơn, chàng chỉ: “nghe nói liền cười”, đối với chàng hành động trượng nghĩa không phải là để trả ơn mà với chàng, làm việc nghĩa như là bổn phận, lẽ tự nhiên.
⇒ Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa Lục Vân tiên mang cốt cách nghĩa sĩ thời loạn với cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử cao đẹp, đó là cách cư xử của một tinh thần hiệp nghĩa của các bậc hảo hán.
2. Hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga
- Bên cạnh Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật lí tưởng của tác phẩm.
- Những phẩm chất tốt đẹp của Kiều Nguyệt Nga được thể hiện qua lời giãi bày với Lục Vân Tiên:
+ Nàng là một cô gái thùy mị nết na, có học thức: cách xưng hô của nàng rất khiêm nhường: “quân tử” “tiện thiếp”.
+ Nàng sống mực thước khuôn phép: “làm con đâu dám cãi cha”.
+ Nàng còn là một người cư xử có trước có sau: nàng coi trọng ơn nghĩa của Lục Vân Tiên với mình và muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng có thể: “gẫm câu báo đức thù công- lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
+ Kiều Nguyệt Nga đã nguyện gắn bó suốt đời mình với chàng trai hiệp nghĩa Lục Vân Tiên.
⇒ Kiều Nguyệt Nga hiện lên là một nhân vật có lòng tự tôn và đức hạnh.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật làm nên thành công của tác phẩm.
- Trình bày cảm nhận, suy nghĩ về vẻ đẹp của hai nhân vật trung tâm.
Em tham khảo:
Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khắc họa một cách sinh động, chân thực, đặc biệt là thông qua đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”. Trong chuyến đi về miền Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga đã phải đối mặt với một mối nguy hiểm lớn từ đám “ bớ đảng hung đồ”. Thân gái yếu ớt không thể làm gì hơn nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp thì nàng đã rất hoảng loạn, sợ hãi. Tuy nhiên, khi được những hành động nghĩa hiệp, nhân nghĩa của Lục Vân Tiên cứu giúp thì những lời nói, hành động sau đó của Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ được phẩm chất đoan trang, dịu dàng, có học thức của một tiểu thư khuê các. Ta thấy nàng là một người con gái hết mực đoan trang, dịu dàng; một người con có hiếu, luôn vâng lời cha “ làm con đâu dám cãi cha”. Và để làm theo mong muốn của cha là “tiện bề nghi gia” thì nàng cũng ngại thân con gái phải ngàn dặm xa xôi mà “ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.Như vậy, ta có thể thấy, hình tượng Kiều Nguyệt Nga có thể coi là một hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến xưa, nết na, hiền thục, có học thức và cũng là một người con có hiếu. Trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga tha thiết muốn được đền ơn và tỏ mong muốn mời Vân Tiên về nhà cùng mình để tiện bề báo đáp “Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”. Qua lời nói của Nguyệt Nga ta cũng thấy một con người đầy chính nghĩa, đề cao tư tưởng “đền ơn, tạ nghĩa “đối với người “ân nhân” của mình. Vốn là một tiểu thư đài các, nhưng Nguyệt Nga tự xưng mình là “tiện thiếp”, thể hiện sự chuẩn mực, nề nếp, cũng thể hiện được sự khiêm nhường, từ tốn. Cũng trong cuộc đối đáp với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga thể hiện được tài năng văn thơ hết mực tài hoa, tinh tế.
Tham khảo
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kì về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian.
Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này. “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa.
Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu. Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy.
Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp: “Vân Tiên tả đột hữu xông Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong” Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống.
Tham Khảo
Bạn đọc dàn ý rồi tự làm một bài văn hoàn chỉnh theo ý mình nhé!!
a) Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc, nhà thơ, nhà giáo - ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước Nam Bộ đầu thế kỉ XIX.
+ Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp, giúp đỡ giữa con người với con người, hướng tới lẽ công bằng.
- Giới thiệu khái quát 14 câu thơ đầu đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga : tái hiện cảnh Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp.
b) Thân bài
* Khái quát về đoạn trích:
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của Truyện Lục Vân Tiên.
- Giá trị nội dung: Khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, qua đó thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
* Phân tích 14 câu thơ đầu: Cảnh Lục Vân Tiên đánh cướp
- Giữa đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp
+ Từ giã thầy, Vân Tiên xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí
+ Giữa đường thì gặp phải bọn cướp hãm hại dân lành liền hành hiệp trượng nghĩa.
=> Tính cách anh hùng, tài năng giúp đời và tấm lòng "vị nghĩa vong thân”
- Đối đầu với lũ cướp
+ Vân Tiên chỉ có một mình, tay không đánh cướp
+ Lũ cướp rất đông với gươm giáo sáng ngời
+ Không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy
+ Không hề run sợ, Vân Tiên xông vào đánh cướp
+ Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, tung hoành giữa bọn cướp.
- Kết quả trận đánh cướp
+ Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác
+ Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt.
=> Lục Vân Tiên mang cốt cách nghĩa sĩ thời loạn với cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử cao đẹp, đó là cách cư xử của một tinh thần hiệp nghĩa của các bậc hảo hán.
c) Kết bài
- Cảm nghĩ của em về 14 câu thơ đầu.