Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chim đà điểu
- Di chuyển : Dùng 2 chân để di chuyển.
- Kiếm ăn : Thức ăn đơn giản như rau củ quả , và 1 số thức ăn khác.
- Sinh sản : Đẻ trứng
Chim cánh cụt
- Di chuyển : Di chuyển bằng 2 chân hoặc khi bơi thì dùng cả cánh để bơi.
- Kiếm ăn : Chủ yếu là kiếm ăn ở dưới nước và ăn cá.
- Sinh sản : Có thể giao phối cả đời và đẻ trứng.
Chim ưng
- Di chuyển : Dùng 2 chân để bám còn bay bằng 2 cánh.
- Kiếm ăn : Chuyên săn bắt mồi về ban ngày, bắt chim, gặm nhấm, gà, vịt
- Sinh sản : Sinh sản chậm 1 năm đẻ 1 lần khoảng 2- 3 quả.
Chim bồ câu
- Di chuyển : di chuyển bằng hai chân và hai cánh.
- Kiếm ăn: thức ăn của chúng là gạo, ngô, các loại đậu.
- Sinh sản: con trống có cơ quan giao phối tạm thời, thụ tinh trong, để trứng.
Công:
- Di chuyển : di chuyển bằng hai chân và hai cánh.
- Kiếm ăn: chủ yếu là ngũ cốc và rau xanh.
- Sinh sản: đẻ trứng.
còn lại 3 con chim kia thì Lãnh Hàn CTV đã nêu.
3.Sinh sản:
-Thụ tinh trong, đẻ trứng
-Trứng chứa nhiều nãn hoàng, có vỏ đá vôi bảo vệ bên ngoài.
-Có hiện tượng ấp trứng và nuôi con bằng sữa diều.
-Chỉ có bộ phận giao phối tạm thời.
1.Sự di chuyển:
-Có 2 hình thức:
+Bay:Có 2 kiểu
*Bay vỗ cánh
*Bay lượn
+Đi chạy.
2. Kiếm ăn:Chim có 2 kiểu để kiếm ăn:
-Kiếm ăn vào ban ngày
-Kiếm ăn vào ban đêm
Câu 2 là mk làm đại nha!
Cách di chuyển : Đi và bơi
Thức ăn : Giun, ốc, cua
Sinh sản : Thụ tinh trong, đẻ trứng
refer
Di chuyển:
Khi di chuyển châu chấu có thế bò bằng cá 3 đôi chân trên cây, hay nhảy từ cây này sang cây khác bằng đôi chân sau (thường gọi là càng) hoặc nhảy, rồi sau đó bay bằng cánh nếu di chuyển xa.
Sinh sản:
Châu chấu phân tính, tuyến sinh dục dạng chùm, tuyến phụ sinh dục dạng ống. Trứng đẻ dưới đất thành ổ. Châu chấu non nở ra đã giống trưởng thành nhưng nhỏ, chưa đủ cánh, phải sau nhiều lần lột xác mới trở thành con trưởng thành. Đó là hình thức biến thái không hoàn toàn.
châu chấu sống khắp nơi trên ruộng lúa, nương ngô, lạc, đậu, trong lùm bụi, đám cỏ, cây ăn quả và cây công nghiệp. Đẻ trứng trong đất nhất là đất cát, đất xốp sâu khoảng 10 cm, nơi có nhiều cỏ dại thành từng ổ, mỗi ổ có rất nhiều trứng màu vàng, giống như hạt gạo.
Nhờ cơ quan miệng khoẻ, sắc châu chấu gặm chồi và ăn lá cây. Thức ăn được tẩm nước bọt rồi tập trung ở diều, được nghiền nhỏ ở dạ dày cơ, rồi tiêu hoá nhờ enzim do ruột tịt tiết ra.
Bạn tham khảo:
hãy nêu các cách thức di chuyển của chim!
Lớp chim có các hình thức di chuyển khá đa dạng, song có thể chia thành 3 hình thức chính:
- Chạy : thích nghi với tập tính chạy nhanh trên thảo nguyên và hoang mạc khô nóng đại diện chính là các loài đà điểu ở Châu Phi, Châu Mĩ và Châu Đại Dương.
- Bơi : thích nghi với đời sống bơi lội trong nước, đại diện chính là các loài chim cánh cụt ở Nam Bán cầu.
- Bay : thích nghi với đời sống bay ở các mức độ khác nhau. Thuộc nhóm chim bay gồm các loài chim bay vỗ cánh (đại diện là chim bồ câu, chim se, cú, quạ) và các loài chim bay lượn (đại diện là chim hải âu).
hãy nêu những tập tính kiếm ăn và sinh sản của chim!
Tập tính kiếm ăn của chim cũng khá đa dạng. Có những loài hoạt động kiếm ăn về ban ngay (đa số các loài chim như cò, sáo, gà, vịt, ngỗng…) nhưng cũng có những loài lại kiếm ăn về ban đêm (vạc, cú mèo, cú lợn, cú vọ…). Tùy theo các loại mồi và cách thức kiếm ăn, các nhóm chim khác nhau cũng có những tập tính khác nhau : có nhóm ăn tạp, có nhóm ăn chuyên (chuyên ăn thịt, chuyên ăn xác chết, chuyên ăn hạt, chuyên ăn quả).
Tập tính sinh sản của các loài chim rất khác nhau . Nhưng, nói chung các giai đoạn trong quá trình sinh sản nuôi con của các loài chim gồm : giao hoan (có hiện tượng khoe mẽ), giao phối, làm tổ, đẻ trứng, ấp trứng và nuôi con. Các giai đoạn này được biểu hiện khác nhau tùy theo các bộ chim.
Tham khảo:
Lớp chim có các hình thức di chuyển khá đa dạng, song có thể chia thành 3 hình thức chính:
- Chạy : thích nghi với tập tính chạy nhanh trên thảo nguyên và hoang mạc khô nóng đại diện chính là các loài đà điểu ở Châu Phi, Châu Mĩ và Châu Đại Dương.
- Bơi : thích nghi với đời sống bơi lội trong nước, đại diện chính là các loài chim cánh cụt ở Nam Bán cầu.
- Bay : thích nghi với đời sống bay ở các mức độ khác nhau. Thuộc nhóm chim bay gồm các loài chim bay vỗ cánh (đại diện là chim bồ câu, chim se, cú, quạ) và các loài chim bay lượn (đại diện là chim hải âu).
cá voi:
môi trường sống: dưới nước thuộc môi trường đới lạnh
di chuyển : chân biến đổi thành vây phù hợp di chuyển dưới nước, thân biến đổi thành hình quả thủy lôi để giảm sức cản của nước
kiếm ăn: thức ăn chủ yếu của cá voi răng lược là tôm,cua và cá nhỏ
thức ăn chủ yếu của cá voi răng là cá nhỏ, hải cẩu, cánh cụt, cá mập
sinh sản :thụ tinh trong, nuôi con bằng sữa mẹ, có tập tính chăm sắp con non
hổ sống trên cạn ,trong các rừng rậm, rừng nhiệt đới
Phần lớn các loài hổ sống trong rừng và đồng cỏ (là những khu vực mà khả năng ngụy trang của chúng phù hợp nhất). Trong số các loại mèo khổng lồ, chỉ có hổ và báo đốm Mỹ (jaguar) là bơi tốt, và thông thường người ta hay thấy hổ tắm trong ao, hồ và sông. Hổ kém mèo về khả năng leo trèo. Hổ đi săn đơn lẻ, thức ăn của chúng chủ yếu là các động vật ăn cỏ cỡ trung bình như hươu, nai, lợn rừng, trâu, v.v. Tuy nhiên chúng cũng có thể bắt các loại mồi cỡ to hay nhỏ hơn nếu hoàn cảnh cho phép. Hổ là một trong số nhiều loài động vật ăn thịt nằm ở mắt xích cuối cùng của các chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái tự nhiên.
Hổ thường bị săn bắt để lấy da, xương, hay các bộ phận khác. Nạn săn bắt, buôn bán hổ khiến số lượng loài động vật quý hiếm này giảm 95% so với đầu thế kỷ 20. Ngày nay, trên thế giới chỉ còn khoảng 5.000 - 7.000 cá thể hổ hoang dã, trong đó có khoảng 200 ở Việt Nam và 1.500 ở Ấn Độ.[5] Loài hổ đã được đưa vào danh sách các loài đang gặp nguy hiểm. Hổ có tuổi thọ khoảng 20 năm.[6]
Môi trường sống
- Trên cạn , trên không , dưới nước nơi khí hậu lạnh
Cấu tạo
+ Là động vật có xương sống, thích nghi với sự bay lượn và điều kiện sống khác nhau.
+ Toàn thân mình có lông vũ bao phủ
+ Chi trước biến đổi thành cánh, có mỏ sừng
+ Phổi có các ống khí và các mảng túi khí tham gia hô hấp do có khả năng bay lượn, cần nhiều oxi khi bay
+ Tim có bốn ngăn, máu đỏ tươi, là động vật hằng nhiệt
+ Đẻ trứng, trứng có vỏ đá vôi, được ấp nở ra con nhờ thân nhiệt của bố mẹ.
Di chuyển
- Di chuyển bằng cách bay: có kiểu bay đập cánh (sẻ, bồ câu, cú, quạ) và bay lượn (hải âu, diều hâu, cắt,…)
- Di chuyển bằng cách đi, chạy: đà điểu, nhóm gia cầm, chim cút, quốc,…
- Di chuyển bằng cách bơi: chim cánh cụt.
Nhìn chung, các cách di chuyển của chim có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và các loài trong lớp chim sử dụng linh hoạt các kiểu di chuyển trên ở những điều kiện nhất định.
Kiếm ăn
- Thời điểm hoạt động: loài kiếm ăn ban đêm (cú mèo, cú lợn, vạc,…), loài kiếm ăn ban ngày (phần lớn các loài chim).
- Đặc điểm mồi: nhóm ăn tạp, nhóm ăn mồi sống, nhóm ăn xác chết, nhóm ăn hạt, nhóm ăn mật hoa, nhóm ăn quả…
Sinh sản
- Tập tính giao hoan: khoe mẽ, đánh nhau giành bạn tình, làm tổ đợi con cái,…
- Tập tính giao phối: mùa giao phối khác nhau.
- Tập tính làm tổ, đẻ trứng: làm tổ dưới đất, làm tổ trên cây, đi đẻ nhờ ở tổ loài khác,…
- Tập tính ấp trứng và nuôi con: chim bố mẹ thay nhau ấp trứng và cùng chăm sóc con non hoặc chỉ có con mái ấp trứng hoặc để loài khác “nuôi hộ” con non…
Tham khảo :
* Lớp chim có các hình thức di chuyển khá đa dạng, song có thể chia thành 3 hình thức chính:
- Di chuyển bằng cách bay: có kiểu bay đập cánh (sẻ, bồ câu, cú, quạ) và bay lượn (hải âu, diều hâu, cắt,…)
- Di chuyển bằng cách đi, chạy: đà điểu, nhóm gia cầm, chim cút, quốc,…
- Di chuyển bằng cách bơi: chim cánh cụt.
Nhìn chung, các cách di chuyển của chim có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và các loài trong lớp chim sử dụng linh hoạt các kiểu di chuyển trên ở những điều kiện nhất định.
* Tập tính kiếm ăn của chim khá đa dạng:
- Thời điểm hoạt động: loài kiếm ăn ban đêm (cú mèo, cú lợn, vạc,…), loài kiếm ăn ban ngày (phần lớn các loài chim kiếm ăn vào sáng sớm).
- Đặc điểm mồi: nhóm ăn tạp, nhóm ăn mồi sống, nhóm ăn xác chết, nhóm ăn hạt, nhóm ăn mật hoa, nhóm ăn quả…
* Tập tính sinh sản của các loài chim khác nhau ở mỗi loài:
- Tập tính giao hoan: khoe mẽ, đánh nhau tranh giành bạn tình, làm tổ đợi con cái, tập tính đa thê…
- Tập tính làm tổ, đẻ trứng: làm tổ dưới đất, làm tổ trên cây, đi đẻ nhờ ở tổ loài khác,…
- Tập tính ấp trứng và nuôi con: chim bố mẹ thay nhau ấp trứng và cùng chăm sóc con non hoặc chỉ có con mái ấp trứng hoặc để loài khác “nuôi hộ” con non.
Tham khảo:
Chim cánh cụt có thể đi lạch bạch bằng hai chân hoặc trượt bằng bụng của chúng dọc theo lớp tuyết, một chuyển động gọi là "trượt băng", điều này cho phép chúng tiết kiệm năng lượng trong khi vẫn có thể chuyển động tương đối nhanh.
lặn sâu xuống biển và ăn các loại nhuyễn thể, cá, mực
Sinh sản. Một số loài chim cánh cụt có thể giao phối cả đời, trong khi các loài khác chỉ giao phối một mùa. Nói chung, chúng tạo ra một bầy con nhỏ và cả chim bố lẫn chim mẹ cùng chăm sóc con non. Ở một số loài con cái đẻ ít trứng (10-20: 10 trứng), ấp 65 ngày.
tham khảo
1. Môi trường sống của thú rất đa dạng:
- Thú sống trên mặt đất: thường ở nơi trống trải, có ít chỗ trú ẩn và nhiều thức ăn (bộ Móng Guốc, bộ Gặm nhấm, bộ Ăn sâu bọ ...).
- Thú sống trong đất : Có loài đào hang để ở (chuột đồng, dúi, nhím). Có loài đào tìm kiếm thức ăn trong đất (chuột chũi).
- Thú ở nước : Có loài chỉ sống trong nước (cá voi, cá đen phin, bò nước). Có loài sống ở nước nhiều hơn (thú mỏ vịt, rái cá, hải li ...).
- Thú bay lượn : có loài ban ngày ở trong hốc cây, ban đêm đi kiếm ăn trên không trung (dơi ăn sâu bọ); sống trên cây, ăn quả (dơi quả); có loài hoạt động về ban ngày (sóc bay).
2. Các hình thức di chuyển của thú cũng khá đa dạng, tùy thuộc môi trường sống:
- Trên cạn: Đi, chạy bằng 4 chân hoặc 2 chân (thú móng Guốc, thú Ăn thịt, thỏ, kanguru, khỉ, vượn ...), leo trèo (sóc, vượn, báo, mèo rừng ...).
- Trên không: Bay (dơi), lượn (cầy bay, sóc bay).
- Dưới nước: Bơi (cá voi, cá đen phin, rái cá, hải li, trâu nước ...).
3. + Các cách thức kiếm ăn: săn mồi, tìm mồi, rình mồi; mồi: ăn thịt sống, ăn xác chết, ăn tạp, ăn thực vật.
+ Tập tính sinh sản: khác nhau tùy loài. Nhưng đều theo quy trình chung: giao hoan (đánh nhau tranh giành con cái), giao phối, đẻ con/ đẻ trứng, chăm sóc con non, nuôi dạy con non.
1. Môi trường sống của thú rất đa dạng:
- Thú sống trên mặt đất: thường ở nơi trống trải, có ít chỗ trú ẩn và nhiều thức ăn (bộ Móng Guốc, bộ Gặm nhấm, bộ Ăn sâu bọ ...).
- Thú sống trong đất : Có loài đào hang để ở (chuột đồng, dúi, nhím). Có loài đào tìm kiếm thức ăn trong đất (chuột chũi).
- Thú ở nước : Có loài chỉ sống trong nước (cá voi, cá đen phin, bò nước). Có loài sống ở nước nhiều hơn (thú mỏ vịt, rái cá, hải li ...).
- Thú bay lượn : có loài ban ngày ở trong hốc cây, ban đêm đi kiếm ăn trên không trung (dơi ăn sâu bọ); sống trên cây, ăn quả (dơi quả); có loài hoạt động về ban ngày (sóc bay).
2. Các hình thức di chuyển của thú cũng khá đa dạng, tùy thuộc môi trường sống:
- Trên cạn: Đi, chạy bằng 4 chân hoặc 2 chân (thú móng Guốc, thú Ăn thịt, thỏ, kanguru, khỉ, vượn ...), leo trèo (sóc, vượn, báo, mèo rừng ...).
- Trên không: Bay (dơi), lượn (cầy bay, sóc bay).
- Dưới nước: Bơi (cá voi, cá đen phin, rái cá, hải li, trâu nước ...).
3. + Các cách thức kiếm ăn: săn mồi, tìm mồi, rình mồi; mồi: ăn thịt sống, ăn xác chết, ăn tạp, ăn thực vật.
+ Tập tính sinh sản: khác nhau tùy loài. Nhưng đều theo quy trình chung: giao hoan (đánh nhau tranh giành con cái), giao phối, đẻ con/ đẻ trứng, chăm sóc con non, nuôi dạy con non
Di chuyển
- Dùng cánh để bay
Kiếm ăn
- Lúc ban đêm đi săn mồi do mắt tinh
- Thức ăn là các con mồi nhỏ như côn trùng và động vật không xương sống khác động vật nhỏ, côn trùng, chim nhỏ, một vài loài săn cả cá
Sinh sản
- Kêu suất đêm để tìm bạn tình giao phối
- Sinh sản vào những mùa thuận lợi và chăm sóc con khá chu đáo.
Cú mèo là loài chim ăn đêm với khả năng bay lượn nhẹ nhàng. Chính khuôn mặt lạ lùng cùng tập tính sống bí ẩn, cú mèo thường đại diện cho bóng tối và sự ma quái.
Cú mèo kiếm ăn về ban đêm. Nó bắt các con mồi nhỏ như côn trùng và động vật không xương sống khác động vật nhỏ, côn trùng, chim nhỏ, một vài loài săn cả cá. Chim cú sống khắp nơi trên thế giới trừ châu Nam Cực Greenland và một vài hòn đảo
Mùa sinh sản của cú luôn trùng khớp với việc nuôi những con cú nhỏ khi có lượng thức ăn dồi dào nhất, không hẳn là lúc đó có nhiều con mồi nhất mà là lượng con mồi bắt được sẽ gia tăng. Điều này có thể là kết quả của việc giảm độ che phủ của thảm thực vật hoặc lúc đó những con mồi hoạt động mạnh hơn hay cất tiếng bảo vệ lãnh thổ khiến chúng dễ dàng bị bắt hơn. Ở một số loài cú điều này có nghĩa là trứng sẽ được đẻ ra sớm hơn, đôi khi tuyết vẫn còn trên mặt đất khiến con non phát triển tương đối chậm để học cách săn mồi hiệu quả hơn trước mùa đông năm tiếp theo.Tất cả trứng cú đều màu trắng, điều này chứng tỏ chúng đều tiến hóa từ một tổ tiên chung. Xây dựng kỹ lưỡng những dấu hiệu để che giấu trứng khỏi những kẻ săn mồi khác trong cái tổ màu đen là không cần thiết, chúng làm vậy là để dễ dàng nhận ra trứng của mình trong màu đen đó. Trứng nằm bên trên nghĩa là sắp nở, sẽ có một khe nứt trên trứng để có thể nhìn thấy phôi non đang phát triển. (Vật thể rắn màu hồng ở giữa) Những mạch máu đang hình thành để nuôi cú con và cho phép Oxy được hấp thụ vào trong dòng máu. Lòng đỏ bên trong trứng không nhìn thấy được nhưng nó ở đó để nuôi dưỡng con non đến khi trứng nở.Số lượng trứng tùy thuộc từ loài này đến loài khác, từ năm này qua năm khác và từng cá thể trong loài. Nhìn chung những loài cú lớn lại đẻ ít trứng hơn, những loài ở vùng nhiệt đới đẻ ít hơn những loài ở những vùng vĩ cực. Ở các vùng ôn đới và cận Bắc Cực thì một số loài như CÚ TUYẾT, CÚ LỬA và CÚ LỢN có thể tăng kích cỡ của tổ vì số lượng con mồi tăng lên, trong những năm khi mà số lượng chuột đồng và chuột Lemming giảm sút thì việc sinh sản có thể bị bỏ rơi hoàn toàn.Trứng cú có hình dạng tương đối hình cầu một đầu to, một đầu nhỏ hơn. Ở một số loài, con cái bắt đầu ấp trứng ngay khi quả trứng đầu được đẻ ra. Mỗi quả trứng được đẻ cách nhau ít nhất một ngày, thường sẽ là hơn, dẫn đến việc chúng được nở không đồng đều, khi mà con lớn nhất có thể cách con nhỏ nhất đến hai tuần. Điều này cũng có nghĩa là mỗi con cú non đạt đến thời kì nhu cầu thức ăn cao nhất tại các thời điểm khác nhau dẫn đến việc bố mẹ chúng sẽ phải có trách nhiệm nặng nề hơn. Trong những năm khan hiếm thức ăn, những con lớn và khỏe mạnh nhất sẽ có cơ hội sống sót cao hơn, những con non hơn không thể qua khỏi thậm chí có thể sẽ làm nguồn thức ăn cho những con còn lại.Trong suốt thời kì ấp trứng cho đến khi con non nhỏ nhất đủ lớn để có thể duy trì nhiệt độ cơ thể của chúng thì tất cả nguồn thức ăn sẽ được cung cấp bởi con đực, con cái rất hiếm khi rời tổ. Nó sẽ mớm miếng mồi nhỏ cho những con non của mình cho đến khi chúng có thể tự mổ và nuốt cả con mồi, lúc đó con cái sẽ ra ngoài đi săn cùng bạn đời của nó.Thời kì mọc lông thay đổi rất nhiều ở một số loài và một số thậm chí còn ở lại trong khu vực tổ cũ cho đến năm sau nữa. Dần dần những con non biết bay sẽ bắt đầu học cách săn mồi bắt đầu từ những con côn trùng nhỏ và những con mồi còn sống do cha mẹ chúng mang về. Hầu hết các loài đều tách ra riêng ở mùa đông đầu tiên của chúng và trong rất nhiều trường hợp con non bị cha mẹ chúng chủ động đuổi đi trước đó.tik nha