Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật của bài Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) và Hầu trời (Tản Đà)
Lưu biệt khi xuất dương: Thể thơ Đường luật (Thất ngôn bát cú đường luật), sử dụng hình ảnh có tính ước lệ, tượng trưng diễn tả chí khí nam nhi kiên cường.
+ Nét mới: có chất lãng mạn, hào hùng xuất phát từ nhiệt huyết cách mạng sôi nổi của nhà cách mạng Phan Bội Châu.
+ Bài Hầu trời: Lối thơ cổ, từ ngữ, hình ảnh, cách diễn đạt vẫn mang dấu ấn văn học trung đại.
+ Cách tân: thể thơ tự do, thể hiện cái tôi cá nhân, ý thức được tài năng, khẳng định mình giữa cuộc đời.
Tính chất giao thời (văn học trung đại và hiện đại): văn học hiện đại vẫn mang dấu ấn của văn học trung đại về mặt hình ảnh, từ ngữ, lối diễn đạt nhưng cũng có những nét mới như dám đưa cái tôi cá nhân vào thơ để bày tỏ khát vọng, mục đích sống.
– Quá trình hiện đại hoá đạt được những thành tựu đáng kể.
– Các tác phẩm tiêu biểu: Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh), Hầu trời (Tản Đà), Gánh nước đêm (Trần Tuấn Khải)…các sáng tác bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc.
– Nhiều yếu tố của văn vẫn còn tồn tại.
– Quá trình đổi mới hoàn tất, nhiều thành tựu ở mọi lĩnh vực.
– Các tác phẩm tiêu biểu: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Chí Phèo (Nam Cao), Thơ duyên (Xuân Diệu)….
VHVN có thể hội nhập với nền VH thế giới.
a. Thanh Hiên thi tập:
- Hoàn cảnh sáng tác: viết vào những năm trước 1802, để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế độ Lê – Trịnh.
- Nội dung: chứa đựng tình cảm quê hương thân thuộc, có khi ốm đau mà chẳng thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức… Thanh Hiên thi tập ghi lại tâm sự của một con người đầy hùng tâm, tráng chí nhưng gặp nhiều cảnh ngộ không như ý nên phải ôm trong lòng mối u uất không thể giải tỏa. Bao trùm tập thơ là điệp khúc buồn, u uẩn, day dứt khôn nguôi.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán, sử dụng các điển tích, điển cố.
b. Nam trung tạp ngâm:
- Hoàn cảnh sáng tác: gồm những bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông các điện học sĩ ở Huế cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Tập thơ hiện có 40 bài, mở đầu tập là bài Phượng hoàng lộ thượng tảo hành (Trên đường Phượng Hoàng) và cuối tập là bài Đại tác cửu tư quy (Làm thay người đi thú lâu năm mong về).
- Nội dung: nói về sự nghèo túng, ốm đau của mình (Ngẫu đề, Thủy Liên đạo trung tảo hành...) hay nói một cách mỉa mai và bóng gió về thói hay chèn ép của các quan lại (Ngẫu đắc, Điệu khuyển...).
- Nghệ thuật: giọng điệu bi thiết, buồn thƣơng. Còn về phong cách, thơ Nguyễn Du có giọng nhu, khoan thai mà tha thiết lắng sâu và chân thành hết mực, cảm hứng trữ tình và cảm hứng hiện thực đan xen làm nên tính chất vừa thống nhất, vừa phân hóa tƣơng đối trong cảm hứng nghệ thuật nói chung của thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trong đó, cảm hứng trữ tình vẫn chiếm ưu thế hơn cả và tạo thành âm hưởng chủ đạo của hai tập thơ. Đó là thế giới tinh thần đầy u uất, buồn thương và những vận động nội tâm sâu sắc của một con người luôn khao khát sống nhưng thời thế lắm điều bất như ý.
c. Bắc hành tạp lục:
- Hoàn cảnh sáng tác: sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc
- Nội dung: là niềm cảm thương trăn trở, day dứt trước số phận con người, đặc biệt là những kẻ tài hoa. Với đề tài hiện thực, Nguyễn Du từ cõi lòng đầy những thất vọng khổ đau của riêng mình đề cập đến những trăn trở trước số phận của cõi người. Xuất hiện trong tập thơ là hiện thực nhân dân cùng khổ, Nguyễn Du đã vẽ nên những bức tranh sông động về tình cảnh những người dân nghèo trên bước đường tha phương.
- Nghệ thuật: thơ chữ Hán, các cặp thơ đối.
Tố Hữu là cây đại thụ trong làng thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc với nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Cuộc đời và sự nghiệp ông như gắn liền, hòa quyện với thi ca, mỗi tập thơ ông cho ra đời đều gắn liền với một giai đoạn lịch sử đầy máu lửa của dân tộc. Những tập thơ tiêu biểu có thể kể đến như “Từ ấy”, “Việt Bắc” hay “Máu và Hoa” hay “Gió lộng”, chúng đều viết về cuộc cách mạng và chứa đựng tình yêu của người thi sĩ dành cho quê hương và con người Việt Nam. Trong đó, bài thơ “Tiếng chổi tre” sáng tác năm 1981 trong tập thơ “Gió lộng” mang nhiều giá trị to lớn nhờ vào nét đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của nó:...
Xem thêm: https://toploigiai.vn/nghi-luan-phan-tich-danh-gia-net-dac-sac-ve-noi-dung-va-nghe-thuat-cua-bai-tho-tieng-choi-tre
Văn bản trên cho thấy người viết muốn làm sáng tỏ điểm đặc sắc về giá trị nội dung của truyện ngắn người tử tù:
- Tác giả ca nêu lên phong cách tạo ra thế giới nhân vật riêng của tác giả truyện ngắn.
- Văn bản ca ngợi nội dung truyện ngắn đã làm nổi bật sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái tài, cái đẹp với cái tục tằn, giữa thiên lương với tội ác.
Văn bản trên cho thấy người muốn làm sáng tỏ đặc điểm về giá trị nghệ thuật
Bài thơ "Biển" của Xuân Diệu là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Bài thơ này thể hiện sự tương phản giữa con người và vũ trụ, và khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ. Nó được viết với tâm trạng đầy lo âu và trăn trở về sự hữu hạn của cuộc sống. Những từ ngữ như "tuy dài thế - vẫn đi qua - dẫu rộng" thể hiện sự ngậm ngùi và nỗi âu lo. Nhà thơ muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống của con người là hữu hạn, và thời gian vẫn luôn trôi đi.
Sau Cuộc cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu- như một người trải qua nhiều sóng gió cuộc đời, đã có cái nhìn sâu sắc hơn về tình yêu. Những trải nghiệm trong chính cuộc đời và tuổi thơ ấu đã khắc sâu trong tâm hồn ông một tình yêu không chỉ đơn thuần là những lời ngọt ngào hay hứa hẹn, mà là sự hiểu biết và cảm thông. Trong tác phẩm của ông, khung trời biển bao la không chỉ là bức tranh đẹp mắt mà còn là biểu tượng cho sự mênh mông và vô hạn của tình yêu. Đó không chỉ là tình yêu riêng tư mà còn là tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người và với tự nhiên. Xuân Diệu đã biến những cảm xúc sâu thẳm đó thành những dòng thơ đậm chất trữ tình và nhân văn, gợi mở cho người đọc cảm nhận vẻ đẹp không gian và tình cảm vô tận của tình yêu.
Trong bài thơ "Biển" của Xuân Diệu, hình tượng của sóng biển không chỉ là một phần của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho sức mạnh và vĩnh hằng của tình yêu. Sóng, biển từ lâu đã là một chất liệu không thể thiếu trong thơ ca. Ta đã nghe qua những tiếng sóng trong tiềm thức của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu hay trong dòng thơ của Thúy Kiều- tiếng sóng đầy dữ dội: “Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.Cố nhân khi xưa ấy đã khai thác biết bao nhiêu tiếng lòng của Sóng thì Xuân Diệu đã đưa sóng biển vào một khía cạnh mới, sâu sắc và đầy mê hoặc. Ông đã khai thác đến bản chất sâu xa nhất của hiện tượng này, làm cho độc giả cảm nhận được sự cuồng nhiệt và sự say mê của tình yêu. Đây không chỉ là sự tương phản giữa bề ngoài mạnh mẽ hay bên trong nồng nhiệt mà còn là sự hiểu biết sâu xa về sự phức tạp và đa chiều của tình yêu. Xuân Diệu, với tài năng thi ca của mình, đã biến sóng biển thành một thước đo cho tình yêu, một sức mạnh vô hình nhưng mãnh liệt và không ngừng biến đổi.Đầu tiên là sự thổ lộ:...
Xem thêm: https://topbee.vn/blog/phan-tich-bai-tho-bien-cua-xuan-dieu
- Về nội dung:
+ “sự tương phản mèo - chuột” phản ánh mặt trái ở làng quê xưa như chuyện “mãi lộ”, “làm luật”, “lệ làng” ... của tầng lớp thống trị trong xã hội nông nghiệp thôn quê ngày xưa.
+ Hình ảnh phản ánh tích cực mối quan hệ của mèo - chuột, dù mèo là kẻ thù “không đội trời chung” của chuột nhưng đã tán đồng ngày lễ lớn của đôi vợ chồng chuột trẻ; chuyện thù hận đã lắng xuống, nhạt đi, phần nào được “hóa giải”.
+ Đó còn là lời khuyên về sự hòa giải, hòa nhập để “chung sống hòa bình” trong cộng đồng.
- Về nghệ thuật:
+ “...tác giả đã tối ưu hóa khả năng thể hiện trên bề mặt hạn hẹp của tờ giấy bằng một khung cảnh sinh hoạt hoành tráng” .
⇒ Vấn đề xã hội được tóm tắt: “một cảnh tượng vừa là nghi lễ trang nghiêm vừa là hội hè náo nhiệt, tưng bừng”.