K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 5 2023
 

     Duyên có nghĩa là quan hệ gắn bó, tựa như tự nhiên mà có chứ không sắp đặt. Theo cách hiểu của em, từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên” ý chỉ sự gặp gỡ vô tình của các cảnh vật xung quanh. Từ đó, nói lên mối duyên của “anh và em”.

 
HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 11 2023

- Cách hiểu về từ “duyên”: nghĩa từ “duyên” rất phong phú: chỉ quan hệ vợ chồng, những gặp gỡ trong đời, quan hệ gắn bó như tự nhiên mà có, sự duyên dáng,…

- Cách hiểu về từ “duyên” trong Thơ duyên: Bức tranh thu ở đây là sự giao hòa, giao duyên tựa như tự nhiên mà có giữa thiên nhiên với thiên nhiên, con người với thiên nhiên và con người với con người. Thơ duyên nói về những duyên tình đẹp đẽ ấy.

7 tháng 3 2018

Thiên địa nhân hòa. Hãy thử tưởng tượng một cuộc sống mà ta luôn đón nhận được những điều ta mong muốn hay một cuộc sống mà ta luôn đánh mất những hoài bão, ước mơ của mình, thì lúc đó, cái xã hội này sẽ như thế nào. Mọi thứ trong cuộc sống đều tương quan, đều dung hòa với nhau. Chính vì thế, đôi khi được cũng không phải là hay và đôi khi mất cũng không phải là thiệt thòi.

Nói đến được – mất có lẽ nhiếu người sẽ nghĩ về sự đối lập toàn diện của hai khái niệm này. “Được” tức là có những gì mình mong muốn và “mất” là lúc những điều mong muốn không còn. Nhưng thực ra không phải vậy, ngược lại chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Trong cái ta “được” có những cái chúng ta “mất”. Và những lúc “mất” sẽ là những lúc “được” hơn cả. Trong cuộc sống, có mấy ai đã đạt được vinh quang, mà không phải trải qua những lần vấp ngã. Hay đối với những học sinh chúng ta, ai có thể học giỏi được mà lại không chịu mất đi thời gian, mất đi công sức rèn luyện. Cứ nghĩ trên đời này cứ được toàn diện và mất toàn diện thì làm sao sẽ có sự cầu tiến, làm sao mà xã hội có thể văn minh, tiến bộ hơn được. Có “mất” thì chúng ta mới phấn đấu để “được”. Và khi có cái “được” rồi thì chúng ta mới thấy được giá trị của cái “mất” kia. Như ông cha ta xưa nay đã nói “Được cái này thì mất cái kia” hay “Trong cái rủi còn có cái may”, hai điều này luôn song hành thì mới đến được thanh công cho cuộc sống, hơn nữa nhận thức được vấn đề này thì con người mới có sự tương quan với nhau, mới biết giúp đỡ nhau và gần gũi nhau hơn.

25 tháng 9 2021

sai vì viết luôn ko xuống dòng

29 tháng 11 2019
1. Nét chung
- Cả hai nhà thơ đều có lòng vì nước, vì dân.
- Cả hai đều rũ bỏ danh lợi, về ở ẩn, hoà đồng với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần.
2. Vẻ đẹp riêng
- Giới thuyết hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ.
- Trong bài thơ Cảnh ngày hè, trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, cảnh sắc thiên nhiên rạo rực, căng tràn, ngồn ngộn sức sống, thể hiện tình cảm mãnh liệt của nhà thơ với đời, với người. Đặc biệt, câu mở đầu bài thơ cho thấy, ở Nguyễn Trãi, cảnh nhàn nhưng tâm không nhàn. Cái nhàn của Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè là cái nhàn bất dắc dĩ. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng ưu quốc, ái dân sâu sắc, thường trực, cuồn cuộn. Làm sao để dân giàu, nước mạnh là ước mơ, là nỗi trăn trở suốt đời của Nguyễn Trãi.
- Trong bài Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vui trọn với thiên nhiên. Cảnh vật trong thơ ông hiện lên yên bình, thanh thản. Hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên trong tâm thế nhàn tản, ung dung, sống với những điều bình dị, sẵn có nơi thôn dã. Thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là không vướng bận việc đời, coi thường công danh. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái nhàn của người đã thoát vòng tục luỵ, đã giác ngộ được quy luật thời thế “công thành thân thoái”.
3. Lí giải sự khác nhau
- Không phải Nguyễn Trãi không thấu hiểu quy luật “công thành thân thoái”, nhưng thời Nguyễn Trãi là thời khởi đầu nhà Lê, đất nước ta vừa độc lập sau hơn hai mươi năm đô hộ của giặc Minh, tình hình còn nhiều khó khăn nhưng mang tiềm lực phát triển, rất cần có bàn tay hiền tài kiến thiết. Tấm lòng của Nguyễn Trãi là tấm lòng nhân nghĩa dạt dào, ưu quốc ái dân nhưng không được tin dùng nên ông phải trở về. Dù sống giữa quê hương trong cảnh nhàn rỗi, vui với cảnh đẹp và cuộc sống thôn quê nhưng tấm lòng ông vẫn luôn hướng về đất nước, nhân dân. Ông không cam tâm nhàn tản để an hưởng riêng mình mà chấp nhận xả thân cống hiến cho đất nước.
- Không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm không quan tâm đến thế sự so với Nguyễn Trãi, mà thời đại của ông là thời trước Lê Trung Hưng, là giai đoạn chế độ phong kiến đã suy tàn, nhiều thối nát, rối ren. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có nhều cố gắng giúp nước, giúp dân nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Lời thơ “ta dại – người khôn” thể hiện thái độ mỉa mai của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho xã hội. Tuy về ở ẩn, không làm quan những ông vẫn giúp nước bằng những lời khuyên sáng suốt cho các thế lực phong kiến đương thời.
30 tháng 11 2019

- Cả hai bài thơ đều thể hiện chữ “Nhàn”; thực chất đây là lối sống nhàn tản, xuất thế, cách ứng xử tiêu cực của những nhà nho không gặp thời. Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của hai bài thơ, ta thấy việc về nhàn là cách duy nhất để giữ gìn khí tiết. Nhưng một khi đã về “nhàn”, các nhà thơ lại rộng mở tấm lòng, hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã.
- Mức độ thể hiện của chữ “Nhàn” ở hai bài thơ có sự khác nhau:
+ Nguyễn Trãi tuy về nhàn nhưng vẫn đau đáu trong nỗi niềm ái quốc ưu dân. Ông nhàn cư chứ không nhàn tâm. Đây chính là tinh thần nhập thế tích cực ngay cả khi đã về nhàn.
+ Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn” được nâng lên thành triết lí sống, thành một lựa chọn. Về nhàn ông đã thật sự tìm được sự thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác (“nội đắc tâm thân lạc”.
- Tuy có những biểu hiện khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều cho thấy cách sống lạc quan và đặc biệt là tâm hồn thanh cao của các vị danh nho

26 tháng 12 2020

cậu tham khảo bài văn này nha

Văn học trung đại luôn là mốc son chói lọi của văn học nước nhà. Một trong những cảm hứng lớn xuyên suốt nền văn học trung đại chính là cảm hứng yêu nước. Trong hai bài thơ ''Tỏ lòng'' của Phạm Ngũ Lão và ''Cảnh ngày hè'' của Nguyễn Trãi, ta thấy được rất rõ cảm hứng yêu nước trong tác giả.

Trong ''Tỏ lòng'', cảm hứng yêu nước gắn liền với hào khí quân đội nhân dân thời Trần và trách nhiệm của trang nam nhi với vận mệnh dân tộc:

''Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu'' 

Lời thơ mang theo tầm vóc, khí thế trong con người của thời đại. Hình ảnh “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” là cách nói ẩn dụ ước lệ gợi ra cho ta khí thế dũng mãnh, kiên cường của quân đội thời Trần. Cụm từ ‟ khí thôn ngưu” được  hiểu là khí thế của đội quân ra trận sôi sục và thậm chí át cả sao ngưu. Câu thơ mang theo bao tình cảm tự hào của nhà thơ với quân đội, hào khí của nhân dân Đại Việt. Hình ảnh con người thời Trần cũng vì thế mà  đẹp hơn trên trang thơ. Người tráng sĩ  là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, vẻ đẹp thời đại. 

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh của cả một thời đại mà con người thức tỉnh mình trong những ý thức, trách nhiệm với quốc gia, dân tộc: 

''Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu''

Người quân tử trong xã hội phong kiên đương thời luôn mang trong mình nợ công danh. Đó cũng là quan điểm của Nho gia. Hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ  là niềm khát khao đáng giặc bảo vệ bờ cõi. Nợ công danh chưa trả hết nên trong thâm tâm nhân vật là sự  “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.  Đó quả là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu vì dân, vì nước.

Cảm hứng yêu nước được tiếp nối trong ''Cảnh ngày hè'' cách sau đó mấy thế kỉ. Yêu nước trong Nguyễn Trãi là yêu thiên nhiên, là ước mong về một cuộc sống đủ đầy cho nhân dân. Bức tranh thiên nhiên c được Nguyễn Trãi vẽ bằng tình cảm chân thành, thắm thiết. Những cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen được thi vị hóa trong thơ Nguyễn Trãi đem đến vô vàn những cảm nhận trong lòng người. Tác giả đã sử dụng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật và mang vào đó sự hồi sinh, sức sống của cảnh vật. Động từ mạnh “phun”, đùn đùn” đã vô cùng thành công diễn tả sự căng tràn của cảnh vật. Ta thấy hiện lên trong bức tranh ấy là con người vô cùng yêu, say mê cảnh sắc thiên nhiên và cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả giác quan, hưởng trọn cái đẹp thiên nhiên. 

Bức tranh cuộc sống sôi động với chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương giúp ta thấy được cái nhạy bén và sự gần gũi của thi nhân với cảnh vật. Những từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống với sức sống căng tràn làm lòng người xốn xang. 

Chân dung nhà thơ, chân dung yêu nước nồng nàn, tha thiết còn được thể hiện rõ trong những câu sau. Nếu mở đầu bài thơ là sự rảnh rỗi thì đến đây ta hiểu nhà thơ thân nhàn mà tâm không nhàn. Điển tích điển cố “Ngu cầm” đã gợi về triều đại vua Nghiêu Thuấn với nền thái bình. Và niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi chính là được sống cống hiến cho nhan dân, để nhân dân được hưởng hạnh phúc. 

Cả hai bài thơ đều là những vần thơ độc đáo thể hiện tình yêu nước nồng nàn, lớn lao trong mỗi tác giả. Cảm hứng yêu nước ấy đã mở ra tình yêu lớn lao để không chỉ là quá khứ kia đẹp tươi mà nhân dân hiện nay cũng thêm ý thức, trách nhiệm với tình yêu nước nồng nàn. 

Chúc cậu học tốt