K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau: Đoạn trích 1: NHÀ MẸ LÊ Thạch Lam      Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu tác hại của việc lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI).

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:

Đoạn trích 1:

NHÀ MẸ LÊ

Thạch Lam

     Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.

     Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.

(Trích Nhà mẹ Lê, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2015, trang 28 - 29)

Đoạn trích 2:

LÀM MẸ

Nguyễn Ngọc Tư

   (Lược phần đầu: Dì Diệu và chú Đức lấy nhau đã nhiều năm nhưng không có con vì năm cưới chú, việc cắt khối u buồng trứng đã khiến dì không thể tự sinh con. Bởi niềm khao khát về đứa con chưa lúc nào nguôi nên dì bàn với chú Đức tìm người mang thai hộ. Chị Lành gánh nước thuê vì hoàn cảnh gia đình ngặt nghèo nên nhận lời giúp chú dì. Em bé trong bụng chị Lành ngày một lớn đem đến niềm vui vô bờ cho chú dì, và cũng dấy lên tình mẫu tử ở chị Lành.)

   Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:

   – Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè.

   Dì Diệu hớn hở vén bụng chị Lành lên, dưới làn da căng mẫn, đứa bé con chòi đạp rối rít. Chị Lành cười giòn:

   – Nó mạnh quá chị ha....

   Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở cho một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng, tới chảy nước dãi món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được: cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.

   Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé khóc ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa. Hợp đồng đã ghi rõ ràng như vậy. Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu. Chị rối rít ăn, rối rít ngủ vì biết rằng mai nầy rồi chẳng còn nhau...

(Nguyễn Ngọc Tư, Làm mẹ, Tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, 5/2024)

0
7 tháng 11
Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/chị về nhân vật “tôi” trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.

Đoạn văn cảm nhận về nhân vật "tôi":

Nhân vật "tôi" trong đoạn trích thể hiện một tâm hồn nhạy cảm và đầy suy tư về cuộc sống xung quanh. Mặc dù có thể chưa đủ trưởng thành để hiểu hết mọi điều trong xã hội, "tôi" vẫn luôn đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời về bản thân và thế giới. Cách nhân vật "tôi" nhìn nhận sự vật, hiện tượng, không phải theo cách đơn giản mà là một góc nhìn sâu sắc, đầy sự trăn trở. Qua những cảm nhận và suy nghĩ của "tôi", người đọc có thể thấy được một nhân vật đang trong quá trình tự nhận thức, tìm kiếm sự thật và những giá trị sống cho riêng mình. Hành trình tìm hiểu này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chính sự chân thành và khao khát hiểu biết của "tôi" đã tạo nên một hình ảnh đáng trân trọng và đầy tính nhân văn.

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về vấn đề áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay.

Bài văn nghị luận:

Áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay

Áp lực đồng trang lứa là một vấn đề ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại, đặc biệt là đối với giới trẻ. Đây là sự tác động mạnh mẽ từ bạn bè, từ nhóm người cùng lứa tuổi, khiến các bạn trẻ phải thay đổi bản thân, làm những điều mà họ không thật sự mong muốn, chỉ vì muốn được chấp nhận và hòa nhập. Vấn đề này đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển tâm lý và nhân cách của giới trẻ.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến áp lực đồng trang lứa là sự xuất hiện mạnh mẽ của các mạng xã hội. Trên các nền tảng này, mọi người dễ dàng so sánh bản thân với những người khác, từ ngoại hình, thành tích học tập đến phong cách sống. Những hình ảnh hoàn hảo, những cuộc sống đầy màu sắc của người khác dễ dàng khiến giới trẻ cảm thấy thiếu tự tin và muốn thay đổi để phù hợp với tiêu chuẩn mà xã hội đang đặt ra. Chính sự kỳ vọng không thực tế này tạo ra một áp lực vô hình, làm mất đi bản sắc cá nhân và sự tự tin vốn có của mỗi người.

Thêm vào đó, việc nhóm bạn bè, bạn cùng lớp hay các cộng đồng đồng trang lứa có những quan điểm, sở thích chung cũng là một yếu tố làm gia tăng áp lực này. Để không bị cô lập, nhiều bạn trẻ đã lựa chọn làm theo, bất chấp đó có phải là điều mình thực sự muốn hay không. Họ có thể đánh mất chính mình chỉ vì sợ bị tẩy chay hoặc cảm thấy không đủ khả năng để theo kịp nhịp sống của những người xung quanh.

Tuy nhiên, không phải lúc nào áp lực đồng trang lứa cũng chỉ có tác động tiêu cực. Trong một số trường hợp, nó cũng có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân. Khi phải đối diện với những kỳ vọng từ bạn bè, giới trẻ có thể rèn luyện tính kiên trì, kỷ luật và khả năng tự vượt qua giới hạn bản thân. Chẳng hạn, khi một nhóm bạn học giỏi, chăm chỉ, họ sẽ tạo động lực cho nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra khi áp lực được xử lý một cách tích cực và không làm mất đi sự tự tin hay giá trị cá nhân.

Để giảm thiểu tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa, giới trẻ cần phải có sự nhận thức và suy nghĩ độc lập. Họ cần biết cách chấp nhận và yêu thương bản thân, hiểu rằng không có ai là hoàn hảo và mỗi người đều có những giá trị riêng. Gia đình, thầy cô và cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường lành mạnh, nơi mà các bạn trẻ có thể tự do phát triển mà không phải lo lắng về việc phải thay đổi để được chấp nhận. Hơn nữa, các bậc phụ huynh cần giáo dục con cái về việc đối diện với áp lực, biết cách từ chối những yêu cầu không cần thiết từ bạn bè, và quan trọng hơn là làm chủ cuộc sống của chính mình.

Tóm lại, áp lực đồng trang lứa đối với giới trẻ hiện nay là một vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Để vượt qua những áp lực này, giới trẻ cần trang bị cho mình một tâm lý vững vàng, biết yêu thương và chấp nhận bản thân, đồng thời xây dựng những mối quan hệ lành mạnh, tích cực, nơi họ có thể phát triển mà không sợ bị áp lực từ người khác.

Đọc Dữ liệu sau và trả lời câu hỏi: Nhân dân ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn luôn đề cao vai trò của người thầy trong cuộc sống mỗi người. Câu tục ngữ Không thầy đố mày làm nên đã khẳng định vai trò mạnh mẽ đó của người thầy. Mỗi người trong đời, nếu đã khẳng định vai trò mạnh mẽ đó của người thầv. Mỗi người trong đời, nếu không có một người thầy hiểu biết, giàu kinh...
Đọc tiếp

Đọc Dữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

Nhân dân ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn luôn đề cao vai trò của người thầy trong cuộc sống mỗi người. Câu tục ngữ Không thầy đố mày làm nên đã khẳng định vai trò mạnh mẽ đó của người thầy. Mỗi người trong đời, nếu đã khẳng định vai trò mạnh mẽ đó của người thầv. Mỗi người trong đời, nếu không có một người thầy hiểu biết, giàu kinh nghiệm truyền thụ, dìu dắt thì khó mà làm nên một việc gì xứng đáng, dù đó là nghề nông, nghề rèn, nghề khắc chạm, hoặc nghiên cứu khoa học. Do đó trong cuộc đời mỗi người, học ở thầy là quan trọng nhất.

Nhưng trong cuộc sống, muốn thành đạt, con người phải học tập mọi nơi, mọi lúc, học ở bất cứ ai có điều đáng học. Đặc biệt là phải học hỏi ở những người cùng trang lứa, cùng nghề nghiệp, cùng sống chết với nghề. Do đó mà có câư tục ngữ: Học thầy không tày học bạn. Ở đây phải chăng người ta có ý không coi trọng bằng bạn, đánh giá thấp vai trò của người thầy? Thực ra không phải như vậy, bởi nếu bạn có gì đáng học thì bạn đã là thầy. Nhưng thói thường người ta chỉ nhận những “đấng bề trên” là thầy mà không nhận ra những người thầy trong những người bạn cùng lớp, cùng trang lứa, cùng nghề nghiệp của mình. Câu tục ngữ này đề cao học bạn hơn học thầy là do chỗ bạn bè cùng trang lứa, cùng hứng thú, cùng tâm lí thì việc học hỏi, truyền thụ cho nhau có phần thoải mái, dễ dàng hơn, không cách bức, lễ nghi như học thầy. Câu tục ngữ đã khuyên người ta khiêm tốn học hỏi bạn bè, không được coi thường chúng .

Viết 1 đoạn văn từ đoạn ngữ liệu trên để viết bài văn nghị luận trả lời trên câu hỏi "LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC HỌC THẦY HỌC BẠN ĐƯỢC HIỆU QUẢ"

2

mình với ạ

 

giúp mình với ạ