nhận xét của em về nhân vật bé Thu trong ba ngày anh Sáu ở nhà
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây bút nổi tiếng trong dòng văn học hiện đại. Ông đã từng là người lính nên ông có những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và hoàn cảnh trong chiến tranh. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là tác phẩm chiếc lược ngà. Trong tác phẩm thì nhân vật bé Thu cho ta thấy được khá rõ tình cảm sâu đậm của cha con. Em rất thích nhân vật này, vậy chúng ta cùng tìm hiểu nhân vật bé Thu.
Bé Thu có một người cha đang đi lính. Khi cha bé Thu trở về nhà thì lúc đó bé Thu đã được tám tuổi. Bé Thu không nhận ông Sáu là cha của bé Thu là cha. Vì vết sẹo bên má phải nhìn rất đáng sợ và không giống với hình chụp với mẹ bé Thu mà bé Thu đã biết. Khi ông Sáu phải trở về căn cứ thì lúc đó bé Thu đã nhận ông Sáu là cha. Ông Sáu đã hứa khi trở về sẽ tặng cho bé Thu một chiếc lược.
Xuyên suốt cả tác phẩm thái độ của bé Thu có nhiều thay đổi. Nhưng tính cách của cô bé đã được tác giả khắc họa rất tinh tế và nhạy bén là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc khi bé Thu kiên quyết không nhận ông Sáu là cha. Lần đầu tiên được gặp ông Sáu và cũng là lần đầu tiên được ông gọi là con nhưng cộ bé đã: "giật mình, tròn mắt nhìn" kèm theo đó là: "ngơ ngác, lạ lùng". Có lẽ, đây là một hành động đổi là bình thường đối với cái suy nghĩ của cô bé bây giờ.
Và từ bất ngờ đến hốt hoảng và lo sợ khi thấy vết sẹo trên má của ông Sáu đỏ ửng lên và giần giật. Lúc này bé Thu chỉ biết chạy vào nhà và kêu thốt lên: "Má! Má!" Trong suốt những ngày ông Sáu ở nhà bé Thu vẫn không nhận ông là cha. Vì cô bé quá nhỏ và vẫn chưa chấp nhận được tâm lý nên chưa thể chấp nhận ông Sáu là cha chăng?
Khi mẹ bảo bé Thu kêu ba vô ăn cơm thì bé Thu nói trổng: "Vô ăn cơm". Và cương quyết không nhận ông Sáu và kêu ông Sáu là cha trong mọi tình huống: "Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái." ,"cơm nhão bây giờ". Khi ông Sáu gắp cái trứng cá vào chén thì: "Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả bàn" Hành động của bé Thu khi hất cái trứng cá và bị ông Sáu đánh mà vẫn không khóc: "Gắp cái trứng cá vào chén" đã nhấn mạnh tình cảm của cô bé.
Tác giả đã dùng rất nhiều chi tiết thách đố cho nhân vật bé Thu như khi cô bé bị mẹ dọa đánh, bị đưa vào thế bí và khi bị ông Sáu đánh. Những hình ảnh xảy ra nhằm thể hiện tình cảm của một cô bé có một tính cách rất bướng bỉnh và cũng rất lì lợm. Nhưng trong cô bé vẫn còn một chút gì đó rất ngây thơ, dễ thương của một cô bé tám tuổi: "xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rộn ràng, khua thật to". Sau đó chạy sang nhà bà ngoại Thu đã cho bà ngoại là người yêu thương, quan tâm cô nhất nên đã chạy sang nhà bà ngoại mà khóc.
Đây là một khía cạnh khác trong nhân vật bé Thu. Ở đây, cô bé là một người rất hồn nhiên, ngây thơ, dễ thương và cần sự yêu thương, dỗ dành. Khác hẳn với một cô bé cứng cỏi, lì lượm của hằng ngày. Nhưng đối với hôm đó khi cô bé đã nghe bà ngoại kể về chuyện nhận vết sẹo và chứng mình được rằng ông Sáu là cha, cô bé im lặng: "thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn".
Đến đoạn cuối khi nhận cha. Bé Thu đã trở thành một cô bé giàu tình cảm. Tình cha con mà bé Thu giữ gìn ấp ủ bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy. Sáng hôm đó, bé Thu đã được bà ngoại dẫn về nhà. Trong đầu bé Thu lúc này là những ý nghĩ rất hỗn loạn. Hình ảnh người cah lí tưởng, đáng tự hào mà ấp ủ và vun đắp trong tám năm trời đã ngăn cho nó không nhận người đàn ông xa lạ kia là ba.
Những suy nghĩ này đã khiến một cô bé cứng cỏi lại như thể bị bỏ rơi. Bé Thu đã đứng dõi theo tất cả những hành động của mọi người. Đến khi ông Sáu nói lời tạm biệt thì tình cảm của bé Thu đã trỗi dậy một cách mãnh liệt. Cô bé đã kêu ông Sáu là: "Ba!". Tiếng kêu của cô bé như làm xé đi không gian yên tỉnh, xé đi lòng người. Vừa kêu, con bé chạy tới ôm lấy ba nó: "Nó dang cả chân câu chặt ba nó."
Có thể nó nghĩ đôi bàn tay đó không thể giữ ba nó ở lại. Tiếp theo là một hành động khiến mọi người xúc động: "nó hôn lên tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn lên vết sẹo dài trên má của ba nó" Hành động này cho ta thấy bé Thu rất thương ba mình và yêu cả vết sẹo. Vết sẹo như là một chứng minh cho sự yêu nước của ông Sáu và việc hôn lên vết seo cũng là sự mình chứng cho sự tự hào của bé Thu đối với ba của mình.
Trước khi ông Sáu trở về căn cứ bé Thu đã kêu ông Sáu tặng cho cô bé một chiếc lược. Chiếc lược ở đây là món quá duy nhất mà bé Thu muốn được ba mình tặng. Đây cũng chính là món quà duy nhất mà ông Sáu có thể tặng cho con của mình. Chiếc lược ngà như một kỉ vật nói lên tình cha con của cô bé.
Nhân vật bé Thu thể hiện tính cách kiên quyết và lì lợm của một cô bé có những suy nghĩ lớn hơn tuổi. Cô rất thương cha mình mặc dù hai người xa cách nhau từ khi cô một tuổi. Trước khi nhận ông Sáu là cha, cô bé đã rất cứng rắn, quyết định không nhận ông Sáu là cha, cô bé đã rất cứng rắn, quyết định không nhận ông Sáu là cha nhưng khi tiếng tạm biệt từ ba của mình cô bé đã dành tất cả tình cảm vào giây phút cuối cùng.
Tình cảm của cô bé như "giọt nước tràn ly" và tiếng nói của ông Sau như chất xúc tác để tình cảm của cô bé được bộc lộ. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, đoạn trích chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.Truyện đã thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu.
Nhan đề "Chiếc lược ngà" đã nhấn mạnh chiếc lược làm bằng ngà mà bé Thu đã nhờ ba của mình ông Sáu tặng cho mình khi trở về thăm con. Chiếc lược như một kỉ vật để tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bé Thu. Chiếc lược là nhân chứng cho tình yêu và nhân chứng cho sự tàn khốc của chiến tranh.
Qua tác phẩm và đặc biệt là nhân vật bé Thu đã cho ta thấy được tình cảm rất thiêng liêng giữa phụ tử. Dù trong cả chiến tranh thì tình yêu đó vẫn được trong chính người cha là ông Sáu và đứa con gái là bé Thu. Bây giờ, khi đất nước đã hòa bình, chúng ta đang có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vậy chúng ta nên trân trọng những gì ta đang có và cái cần trân trọng nhất đó là tình cảm gia đình.
Hành động trái ngược của bé Thu trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi được thể hiện:
● Khi ông Sáu bồi hồi nhận con thì bé Thu lại tròn mắt ngơ ngác lạ lùng. Bé ngạc nhiên, sợ hãi vì người đàn ông lạ mặt ôm và tự nhận là ba của bé. Vết sẹo dài trên mặt ông Sáu vì xúc động mà đỏ ứng, giật giật khiến cho bé Thu sợ hãi, khóc và chạy về nhà. Khi nhận ra ba thì tình cảm trào dâng, Thu nhất quyết không cho ba đi.
● Hai hành động trái ngược đó thể hiện sự yêu ghét rạch ròi phân minh, một tính cách bản lĩnh vững vàng của cô bé dù chỉ mới tám tuổi. Điều nhất quán trong tính cách nhân vật đó là tình yêu dành cho ba của Thu, cô bé yêu ba, tự hào về ba, khắc ghi hình ảnh của ba trong bức tranh khi chụp chung với má. Em chỉ yêu người ba trong ảnh. Vì vậy, khi nhìn thấy ông Sáu ngoài đời thực khác xa bức ảnh, em đã kiên quyết không nhận. Khi bà ngoại nói cho Thu biết vì thằng Mỹ mà ba có vết thẹo trên má, em yêu thương ba hơn và trong tình yêu mãnh liệt, gấp gáp ấy co cả sự ân hận day dứt.
Thái độ và hành động của bé Thu trái ngược nhau trong ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông Sáu ra đi nhưng vẫn nhất quán trong tính cách:
+ Do tình yêu thương sâu đậm của bé Thu dành cho ba
+ Những ngày đầu, bé Thu kiên quyết không nhận ba do ông Sáu có vết thẹo trên má, khác với hình ảnh Thu nhìn thấy khi chụp với mẹ
+ Khi nhận ra ba tuy đã muộn nhưng Thu vẫn kịp gọi ba, và trao tình yêu thương tới ba.
Diễn biến tâm lý của bé Thu trong lần cuối gặp cha:
- Bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu:
+ Ông Sáu cố gần, vồ vập thì Thu càng lạnh nhạt
+ Thu không nhận ra ba bởi vết thẹo trên má khác với bức hình ba chụp với má
→ Bé Thu bướng bỉnh, ngang ngạnh nhưng hết sức hồn nhiên và đáng yêu
- Bé Thu khi nhận ra cha:
+ Thay đổi thái độ, đột ngột cất tiếng kêu thét lên
+ Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa
+ Nó dang hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, đôi vai của nó run run
→ Tình yêu thương ba được dồn nén bấy lâu nay được thể hiện mạnh mẽ
Qua biểu hiện tâm lí và hành động tác giả thể hiện rõ tính cách của bé Thu rõ ràng, mạnh mẽ, có tình yêu thương ba sâu sắc
Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu- anh Sáu.} Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác.
Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu. Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.
Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, quabé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp.
Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.
a) Nhân vật trong câu chuyện Ba anh em gồm có:
- Ni-ki-ta
- Gô-sa
- Chi-ôm-ca
- Người bà của ba bạn nhỏ
b) Nhận xết của bà về tính cách của từng đứa cháu là rất đúng. Em hoàn toàn đồng ý với lời nhận xét đó. Vì bà đã căn cứ vào suy nghĩ và hành động của từng người cháu sau bữa ăn mà nhận xét
- Ni-ki-ta chỉ nghĩ đến ham thích riêng ăn xong là chạy tót đi chơi, không quan tâm đến ai
- Gô-sa thì láu lỉnh lén hắt những mẩu bánh vụn xuống đất ( lười quét dọn bàn, lãng phí, không nghĩ đến những con chim, những mẩu bánh vụn có thể gom lại cho chim ăn)
- Chi-ôm-ca: Biết giúp bà dọn dẹp bữa ăn, biết nghĩ đến mấy con chim, gom mẩu bánh vụn dành cho chim, biết tiết kiệm
tham khảo nha
Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số tác phẩm đặc sắc như "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch",.. Trong đó, "Chiếc lược ngà" tạo được nhiều ấn tượng hơn cả. Một trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chính - nhân vật bé Thu - một cô bé cá tính, đáng yêu và có tình yêu ba tha thiết.
"Chiếc lược ngà" ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên (Chiếc lược ngà) của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm tạo nhiều bất ngờ cảm động: Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc, anh trở vể, đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức ảnh chụp ngày cưới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.