cơ sở xã hội kinh tế của xã hội phong kiến ở phương đông và có gì giống và khác nhau
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham Khảo:
https://luathoangphi.vn/so-sanh-che-do-phong-kien-phuong-dong-va-phuong-tay/
Tham khảo
https://hoc247.net/hoi-dap/lich-su-7/co-so-kinh-te-cua-xa-hoi-phong-kien-phuong-dong-va-chau-au-faq304394.html
Bạn tham khảo lời giải:
phương đông | phương tây | |
cơ sở kinh tế |
|
|
cơ sở xã hội (2 giai cấp) |
|
|
Cre: Selfomy
I. Điểm giống nhau về cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây.
Nhà nước phong kiến Phương Đông tiêu biểu là nhà nước phong kiến Trung Quốc còn Phương Tây là nhà nước phong kiến Tây Âu. Chế độ phong kiến có hai cấp cơ bản địa chủ ( phương Tây gọi là lãnh chúa hoặc chú đất ) và nông dân ( ở phương Tây gọi là nông nô ), có phương thức bóc lột đặc trưng là địa tô. Ngoài ra còn tầng lớp thợ thủ công và thị dân. Xã hội lúc này có sự đối kháng rất gay gắt của hai giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Hầu hết nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và xuất hiện một số ngành thủ công nghiệp nhưng còn rất ít. Trong xã hội lúc này vô cùng bất công trong khi tầng lớp địa chủ, lãnh chúa thì giàu có sóng một cuộc sống sa hoa thì người nông dân và nông nô thì vô cúng túng bách ,bần hàn. Chế dộ phong kiến ở hai nhà nước vô cùng khắc nghiệt với giai cấp bị trị họ không có ruộng đất hoặc có ít ruộng đất phải di làm thuê cho địa chủ và lãnh chúa bị đối xử rất tàn bạo. Số ít người nông dân hay nông nô có được ít ruộng đất trong tay thì phải đóng tô thuế vô cùng cao đời sống của họ cũng vô cùng khó khăn. những tầng lớp khác trong xã hội cuốc sống cũng vô cùng bấp bênh. Vì vậy, chế độ phong kiến dù ở Phương Đông hay Phương Tây thì cũng như nhau bóc lột con người một cách thậm tệ để phục vụ cho giai cấp thống trị.
II.Điển khác nhau giữ cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây
Cũng tương tự như thời kì cổ đại, cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây nhiều điểm rất khác nhau:
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế đọ phong kiến. Ở phương Tây chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển vô cùng triệt để từ thời kì cổ đại. Trong thời kì phong kiến chế độ tư hữu về ruộng đất không những vẫn như vậy mà còn phát triển thanh tư hữu lớn , các lãnh địa hầu hết nông dân mát hết ruộng đất và trở thành nông nô. Ở Phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như vậy. Hiện tượng phổ biến về sở hữu ruộng đất ở phong kiến Phương Đông là tồn tại quyền sở hữu ruộng đất do nhà nước (vua) đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Tư hữu ruộng đất hầu hết là của đại chủ, chỉ có một phần nhỏ là của nông dân nhưng phát triển chậm . Nói tóm lại, là trong khi ở phương Tây ruộng đất hầu hết thuộc về sở hữu tư nhân ( lãnh chúa ) thì ở phương Đông tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến).
Đặc điểm của những giai cấp trong xã hội, ở phương Đông địa chủ phong kiến là người có nhiều ruộng đất riêng và bóc lột bằng điạ tô. Lãnh chúa phong kiến phương Tây là chủ sở hữu ruộng đất lớn, nguồn lợi thu hầu hết bằng đại tô. vì vậy hình ảnh của vị địa chủ phong kiến phương Tây rất nổi hay nói cách khác định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến ở phương Tây rõ ràng và đậm nét hơn. Nông nô phương Tây hoàn toàn không có ruộng đất, hoàn toàn phải lĩnh canh ruộng đất từ lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người nông nô là người tá điền phụ thuộc hoàn toàn vào chủ.
Ở phương Đông ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần được phong cho quý tộc, quan lại( thường ruộng đất được phong thì không có quyền mua bán), một phần được cấp cho nông dân theo định kì cày cấy để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, Việt Nam, chế độ ban điền ở Nhật Bản… Địa chủ phong kiến không chỉ bóc lột bằng điạ tô từ số ruộng đất tư của mình mà còn bóc lột bằng thuế dược hưởng bằng phân phong. Người nông đân tuy phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và nộp tô, những cũng được nhận một phần ruộng đất của nhà nước và phải nộp thuế. Cũng có một số ít nông dân có ruộng đất riêng để cày cấy. Chính vì vậy người nông dân phương Đông còn có tự do thân thể hơn người nông dân phương Tây-người hoàn toàn bị lệ thuộc vào lãnh chúa.
Như vậy, định tính định lượng của các giai cấp ở Phương Đông không sắc nét như ở phương Tây. Trong khi châu Âu cho đến thế kỉ XIV , văn hóa, giáo dục vẫn bị giáo hội kìm hãm, cả xã hội sống trong vòng lạc hậu, tối tăm, thì ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập là những trung tâm văn minh lớn của thế giới với những thành tựu về văn học, triết học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên,…với phát minh quan trọng là giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn. Khác hẳn với phương Tây, tập đoàn vua quan phong kiến ở phương Đông thường là những nhà tri thức lớn trong xã hội. Trường hợp vua quan không biết chữ hay ít học chỉ là cá biệt, trong dân gian cũng ko ít người có học thức. Từ rất sớm phong cách văn minh, lịch sự, tao nhã đã trở thành nếp sống bình thường của người phương Đông. Chính người phương Tây đã học tập những nếp sống văn minh đó từ những cuộc viễn chinh sang phương đông của thập tự quân cuối thế kỉ XI- XIII.
Nhìn chung, kinh tế tự cung tự cấp giữ vai trò chủ đạo trong chế đọ phong kiến. Nhưng đến cuối thời kì phong kiến ở phương Tây kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh và phát triển đưa phương Tây vượt lên hẳn phương Đông. Các nước phương Đông trừ Nhật Bản đều là thuộc địa của phương Tây.
Về hình thức và chức năng của nhà nước phong kiến Phương Đông và phương Tây trong quản lí kinh tế và xã hội.
Ở phương Tây, hình thức kết hợp của cấu trúc nhà nước, phổ biến và bao trùm là phân quyền các cứ, với những biểu hiện và được quyết định bởi những nguyên nhân khác nhau. Hình thức chế độ chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối-thời kì suy vong của chế độ phong kiến , tính chuyên chế ở chế độ chuyên chế không cao như ở phương Đông. Ngoài ra còn hình thức chế độ tự trị ở thành phố là chính quyền cục bộ để quản lí đời sống xã hội ở thành phố đó, tồn tại trong thời gian không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến, nằm trong phạm trù nhà nước phong kiến. Ở phương Đông hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến là trung ương tập quyền, phát triển hình thành chính thể quân chủ mang tính chuyên chế cực đoan. Trong chính thể đó vua có quyền tuyệt đối là đấng chí cao vô thượng và được thần thánh hóa là thiên tử ( con trời ). Quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về tay vua và sự tồn tại của công xã nông thôn. sự kết hợp chặt chẽ giữ vương quyền và thần quyền. Cũng như thời kì chiếm hữ nô lệ nhà nước phong kiến ở phương Đông vẫn có chức năng đặc biệt và rất quan trọng chức năng trị thủy, thủy lợi.
Dù phương Đông và phương Tây có những điểm khác nhau, nhưng bản chất của phong kiến dù ở đâu cũng chỉ là một. Nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo về quyền vad lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị.
Như vậy, nhà nước phong kiến và nhà nước phong kiến phương Tây tuy có nhiều điểm khác nhau và có những đặc trưng riêng về kinh tế-xã hội, những đều là những nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tứ hai trong lịch sử nó đều bảo vệ và củng cố lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị góp phần quản lí đời sống xã hội. Đây là những kiểu nhà nước điển hình trong lịch sử loài người cần được nghiên cứu, đánh giá nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc hơn.
Cơ sở kinh tế
Phương Đông:Nông nghiệp đóng kín trong công xã nông thôn.
Châu Âu:Nông nghiệp đóng kín trong lãnh địa phong kiến.
Tham khảo:
Cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến là kinh tế nông nghiệp kết hợp chăn nuôi và một số ngành thủ công. - Sản xuất nông nghiệp bị bó hẹp, đóng kín trong các công xã nông thôn (phương Đông) hay trong lãnh địa phong kiến (châu Âu).
Trong xã hội phong kiến có hai giai cấp cơ bản là: + Ở phương Đông: địa chủ và nông dân lĩnh canh. + Ở phương Tây: lãnh chúa và nông nô. - Địa chủ: không có quyền đặt ra các loại thuế, không đứng đầu cơ quan pháp luật.
– Thời điểm ra đời:
+ Ở phương Đông nhà nước phong kiến xuất hiện sớm hơn ở phương Tây, do nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, đoàn kết chống ngoại xâm.
+ Quá trình suy vong dài, bởi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân nên mâu thuẫn dân tộc, giai cấp đã làm chế độ phong kiến suy yếu, khủng hoảng. Nhân dân phương Đông phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống thực dân, lật đổ phong kiến.
+ Ở phương Tây, chế độ phong kiến xuất hiện muộn hơn, nó được hình thành sớm nhất đã là thế kỷ V sau công nguyên. Nó phát triển rất nhanh và thời gian suy vong ngắn. ở phương Tây, nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình.
+ Sự hình thành quan hệ phong kiến trong lòng đế quốc La Mã là yếu tố cơ bản, quyết định, công cuộc chinh phục các bộ lạc của người Giecmanh là yếu tố thúc đẩy quá trình phong kiến hóa. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng.
+ Cơ sở kinh tế: Ở phương Tây, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời đại cổ đại. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến ở đây là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa – chư hầu, tình trạng phân quyền cát cứ kéo dài.
chúc bạn học tốt
nhơs kích đúng cho mk nha
Xã hội phong kiến phương Đông:
- Thời kỳ hình thành: Từ thế kỷ III trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ X, từ rất sớm.
- Thời kỳ phát triển: từ thế kỷ X đến XV, phát triển khá chậm.
- Thời kỳ khủng hoảng: từ thế kỷ XVI đến XIX và kéo dài suốt 3 thế kỉ.
- Cơ sở kinh tế: nông nghiệp đóng kín trong công xã nông thôn.
- Giai cấp cơ bản: địa chủ và nông dân lĩnh canh (bóc lột thông qua tô thuế).
- Thế chế chính trị: quân chủ.
Xã hội phong kiến phương Tây (châu Âu):
- Thời kỳ hình thành: từ thế kỉ V đến thế kỉ X, hình thành muộn, sau Xã hội phong kiến phương Đông.
- Thời kỳ phát triển: từ thế kỷ XI đến XIV, phát triển rất phồn thịnh .
- Thời kỳ khủng hoảng: từ thế kỷ XV đến XVI, kết thúc sớm và bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa tư bản.
- Cơ sở kinh tế: Nông nghiệp đóng kín trong lãnh địa.
- Giai cấp cơ bản: Lãnh chúa và nông nô (bóc lột thông qua tô thuế).
- Thế chế chính trị: Quân chủ
Trả lời :
* Giống nhau :
Về nhà nước phong kiến, các quốc gia phương Đông như phương Tây đều theo chế độ quân chủ (do vua đứng đầu)
* Khác nhau :
- Ở phương Đông, nền chuyên chế đã có từ thời cổ đại. Sang xã hội phong kiến, nhà nước quân chủ chuyên chế ngày càng được hoàn thiện hơn, vua chuyên chế có thêm quyền lực, trở thành Hoàng Đế hay Đại Vương.
- Ở phương Tây, thời Hi Lạp và Rô -ma cổ đại đã có các hình thức dân chủ, cộng hòa và đế chế, thực chất đều là chế độ quân chủ. Chế độ chuyên chế thời cổ đại tiếp tục tồn tại ở thời phong kiến. Song ở giai đoạn đầu, quyền lực của nhà vua rất hạn hẹp, thực chất cũng chỉ là một lãnh chúa lớn mà thôi - đó là chế độ phong kiến phân quyền, quyền hành mới được tập trung trong tay vua.\
Thời gian hình thành
Hình thành tương đối sớm, từ trước Công nguyên (như Trung Quốc) hoặc đầu Công nguyên (như các nước Đông Nam Á).
Hình thành muộn hơn, khoảng thế kỉ V và được xác lập, hoàn thiện vào khoảng thế kỉ X
Cơ sở kinh tế
Nông nghiệp đóng kín trong công xã nông thôn.
Nông nghiệp đóng kín trong lãnh địa phong kiến.
Giai cấp cơ bản
Địa chủ và nông dân lĩnh canh (bóc lột thông qua tô thuế).
Lãnh chúa và nông nô (bóc lột thông qua tô thuế).
Thể chế chính trị
Quân chủ chuyên chế
Quân chủ chuyên chế
# Chúc bạn học tốt!
chỉ ra ko kẻ bảng đâu nha mn