Dựa vào các hình 12.4, 12.5, hãy trình bày và giải thích hoạt động của gió biển, gió đất và gió fơn.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Gió biển: Ban ngày ở lục địa, ven bờ hấp thụ nhiệt nhanh, nóng hơn mặt nước biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi từ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
- Gió đất: Ban đêm, đất toả nhiệt nhanh mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền ; còn vùng nước biển ven bờ toả nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
- Gió fơn: Khi gió mát và ẩm thổi tới một dãy núi, bị núi chặn lại, không khí ẩm bị đẩy lên cao và giảm nhiệt độ theo tiêu chuẩn của khí ẩm, trung bình cứ lên cao l00m giảm 0,6°C. Vì nhiệt độ hạ, hơi nước ngưng tụ, mây hình thành và mưa rơi bên sườn đón gió. Khi không khí vượt sang sườn bên kia, hơi nước đã giảm nhiều, nhiệt độ tăng lên theo tiêu chuẩn không khí khô khi xuống núi, trung bình là l00m tăng 1°C nên gió trở nên khô và rất nóng.
Trả lời:
- Gió biển: Ban ngày ở lục địa, ven bờ hấp thụ nhiệt nhanh, nóng hơn mặt nước biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi từ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
- Gió đất: Ban đêm, đất toả nhiệt nhanh mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền ; còn vùng nước biển ven bờ toả nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
- Gió fơn: Khi gió mát và ẩm thổi tới một dãy núi, bị núi chặn lại, không khí ẩm bị đẩy lên cao và giảm nhiệt độ theo tiêu chuẩn của khí ẩm, trung bình cứ lên cao l00m giảm 0,6°C. Vì nhiệt độ hạ, hơi nước ngưng tụ, mây hình thành và mưa rơi bên sườn đón gió. Khi không khí vượt sang sườn bên kia, hơi nước đã giảm nhiều, nhiệt độ tăng lên theo tiêu chuẩn không khí khô khi xuống núi, trung bình là l00m tăng 1°C nên gió trở nên khô và rất nóng.
- Ban ngày ở lục địa, ven bờ biển hấp thụ nhiệt nhanh và nóng hơn mặt nước ven biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi từ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
- Ban đêm, đất liền tỏa nhiệt nhanh, mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền; còn ở vùng nước biển ven bờ tỏa nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
– Ban ngày ở lục địa, ven bờ đất hấp thụ nhiệt nhanh, nóng hơn mặt nước biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi lừ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
– Ban đêm, đất liền toả nhiệt nhanh mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền; còn vùng nước biển ven bờ toả nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
- Ban ngày ở lục địa, ven bờ đất hấp thụ nhiệt nhanh, nóng hơn mặt nước biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi lừ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
- Ban đêm, đất liền toả nhiệt nhanh mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền; còn vùng nước biển ven bờ toả nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
- Điều kiện hình thành gió biển và gió đất:
+ Vùng ven biển;
+ Sự nóng lên và lạnh đi không đều giữa đất liền và biển.
- Hoạt động và đặc điểm của gió biển và gió đất:
+ Gió biển: thổi vào ban ngày, từ biển vào trong đất liền.
+ Gió đất: thổi vào ban đêm, từ đất liền ra biển.
- Gió Tây ôn đới: Loại gió thổi từ các khu áp cao cận nhiệt đới, thổi gần như quanh năm về phía áp thấp ôn đới. Hướng chủ yếu của gió này là hướng tây (ở bán cầu Bắc là hướng tây nam, ở bán cầu Nam là hướng tây bắc). Gió Tây thổi quanh năm. thường đem theo mưa, suốt bốn mùa độ ẩm rất cao.
- Gió Mậu dịch: Loại gió thổi từ các khu áp cao cận nhiệt đới về Xích đạo. Ở bán cầu Bắc, gió có hướng đông bắc; ở bán cầu Nam, gió có hướng đông nam. Gió thổi quanh năm khá đều dặn, hướng gần như cố định, tính chất của gió nói chung là khô.
Đặc điểm và hoạt động của gió thung lũng và gió núi:
- Đặc điểm: gió thung lũng thường oi bức (nóng ẩm), gió núi mát dịu hơn.
- Hoạt động: Ban ngày, gió thổi từ thung lũng theo sườn núi đi lên; ban đêm, gió theo sườn núi đi xuống.
=> Nguyên nhân: sự chênh lệch nhiệt độ giữa sườn núi và thung lũng.
- Một số loại gió chính trên Trái Đất:
Tiêu chí | Gió Mậu dịch | Gió Tây ôn đới | Gió Đông cực |
Thôi từ … đến … | Đai áp cao chí tuyến về đai áp thấp Xích đạo. | Đai áp cao chí tuyến về áp thấp ôn đới. | Đai áp cao cực về áp thấp ôn đới. |
Hướng gió | - Bán cầu Bắc: đông bắc. - Bán cầu Nam: đông nam. | - Bán cầu Bắc: tây nam. - Bán cầu Nam: tây bắc. | - Bán cầu Bắc: đông bắc. - Bán cầu Nam: đông nam. |
Tính chất | Khô. | Độ ẩm cao, gây mưa. | Rất lạnh và khô. |
Ngoài ra, còn có gió mùa, hướng và tính chất gió 2 mùa trái ngược nhau. Hình thành do sự nóng lên hay lạnh đi không đều giữa lục địa và đại dương.
Lưu ý: Các loại gió chính trên Trái Đất đều thổi từ áp cao về áp thấp.
- Gió địa phương:
+ Gió đất và gió biển: hình thành ở vùng biển, thay đổi hướng theo đêm và ngày. Nguyên nhân do sự nóng lên và lạnh đi không đều giữa đất liền và biển.
+ Gió fơn: loại gió vượt núi, nhiệt độ giảm và gây mưa ở sườn đón gió; khi vượt sang sườn bên kia, hơi nước giảm, nhiệt độ tăng lên, thành gió khô nóng.
Ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á vào mùa hè ở bán cầu Bắc khu vực chí tuyến nóng nhất, do đó hình thành trung tâm áp thấp I-ran (Nam Á). Vì vậy, gió Mậu dịch từ bán cầu Nam vượt qua Xích đạo bị lệch hướng thành gió tây nam, mang theo nhiều hơi ẩm và mưa. Đến mùa đông, lục địa lạnh, các áp cao thường xuyên ở Bắc Cực phát triển mạnh và thường xuyên di chuyển đến phía nam đến tận Trung Quốc, Hoa Kì... Gió thổi từ phía bắc xuống theo hướng bắc - nam, nhưng bị lệch hướng trở thành gió đông bắc lạnh khô
1. Gió Tây ôn đới:
+ Loại gió thổi lừ các khu áp cao cận nhiệt đới. thổi gần như quanh năm về áp thấp ôn đới. Hướng chủ yếu của gió này là hướng tây (ở bán cầu Bắc là tây nam, ở bán cầu Nam là tây bắc).
+ Gió Tây thổi quanh năm, thường mang theo mưa, suốt bốn mùa độ ẩm rất cao.
2. Gió Mậu dịch:
+ Loại gió thổi từ các khu áp cao cận nhiệt đới về Xích đạo. Ở bán cầu Bắc, gió có hướng đông bắc; ở bán cầu Nam. gió có hướng đông nam.
+ Gió thổi quanh năm khá đều đặn, hướng gần như cố định, tính chất của gió nói chung là khô.
1. Gió Tây ôn đới:
+ Loại gió thổi lừ các khu áp cao cận nhiệt đới. thổi gần như quanh năm về áp thấp ôn đới. Hướng chủ yếu của gió này là hướng tây (ở bán cầu Bắc là tây nam, ở bán cầu Nam là tây bắc).
+ Gió Tây thổi quanh năm, thường mang theo mưa, suốt bốn mùa độ ẩm rất cao.
2. Gió Mậu dịch:
+ Loại gió thổi từ các khu áp cao cận nhiệt đới về Xích đạo. Ở bán cầu Bắc, gió có hướng đông bắc; ở bán cầu Nam. gió có hướng đông nam.
+ Gió thổi quanh năm khá đều đặn, hướng gần như cố định, tính chất của gió nói chung là khô.
- Gió biển: Ban ngày ở lục địa, ven bờ đất hấp thụ nhiệt nhanh, nóng hơn mặt nước ven biển, nên ven bờ trên đất liền hình thành áp thấp; ở ven bờ trên mặt biển mát hơn, hình thành cao áp. Gió thổi từ cao áp (ven biển) vào tới áp thấp (ven đất liền) gọi là gió biển.
- Gió đất: Ban đêm, đất liền tỏa nhiệt nhanh, mát hơn, hình thành cao áp ở vùng đất liền; còn ở vùng nước biển ven bờ tỏa nhiệt chậm, nên hình thành áp thấp. Gió thổi từ áp cao (đất liền) tới áp thấp (ven biển) nên gọi là gió đất.
- Gió fơn: Khi gió mát và ẩm thổi tới sườn một dãy núi, bị núi chặn lại và đầy lên cao. nhiệt độ giảm theo tiêu chuẩn của khí ẩm, trung bình cứ lên cao 100 m giảm 0,6oC. Vì nhiệt độ hạ nên hơi nước ngưng tụ, mây hình thành và mưa rào bên sườn đón gió. Gió vượt sang sườn bên kia, hơi nước đã giảm nhiều, nhiệt độ lại tăng theo tiêu chuẩn của không khí khô khi xuống núi, trung bình cứ 100 m tầng loC nên gió trở thành khô và rất nóng.