ĐỀ I
PHẦN I: ĐỌC – HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới.
NGƯỜI CHA ĐƯỢC TẠO RA NHƯ THẾ NÀO
Khi ông Trời bắt đầu tạo ra người cha đầu tiên trên thế gian, ngài chuẩn
bị sẵn một cái khung thật cao. Một nữ thần đi ngang qua ghé mắt coi và thắc
mắc: “Thưa ngài, tại sao người cha lại cao đến như vậy? Nếu ông ta đi chơi bi
với trẻ con thì phải quỳ gối, nếu ông ấy muốn hôn những đứa con mình lại phải
cúi nguời. Thật bất tiện!”. Trời trầm ngâm một chút rồi gật gù: “Ngươi nói có
lý. Thế nhưng nếu ta để cho nguời cha chỉ cao bằng những đứa con, thì lũ trẻ sẽ
biết lấy ai làm tầm cao mà vươn tới?”. Thấy Trời nặn đôi bàn tay nguời cha to
và thô ráp, vị nữ thần lại lắc đầu buồn rầu: “Ngài có biết đang làm gì không?
Những bàn tay to lớn thường vụng về. Với đôi bàn tay ấy, nguời cha chật vật
lắm mới có thể găm kim băng đóng tã, cài nút áo cho con trai, thắt chiếc nơ
hồng cho con gái. Bàn tay ấy không đủ khéo léo để lấy những mảnh dằm nằm
sâu trong da thịt mềm mại của trẻ”. Ông Trời mỉm cuời đáp: “Nhưng đôi bàn
tay to lớn vững chãi đó sẽ dìu dắt bọn trẻ qua mọi sóng gió, cho tới lúc chúng
trưởng thành”.
Vị nữ thần đứng bên cạnh nhìn Trời nặn người cha với một đôi vai rộng,
lực lưỡng. “Tại sao ngài phí thế?”, nữ thần thắc mắc. “Thế người cha sẽ đặt
con ngồi đâu khi phải đưa nó đi xa? Lấy chỗ đâu cho đứa con ngủ gật gối đầu,
khi đi xem xiếc về khuya?”. “Quan trọng hơn, đôi vai đó sẽ gánh vác cả gia
đình”, ông Trời đáp.
Ông Trời thức trắng đêm để nặn cho xong người cha đầu tiên. Ngài cho
tạo vật mới ít nói, nhưng mỗi lời phát ra là một lời quyết đoán. Tuy đôi mắt của
người cha nhìn thấu mọi việc trên đời, nhưng lại bình tĩnh và bao dung. Cuối
cùng khi đã gần như hoàn tất công việc, Trời thêm vào khóe mắt nguời cha vài
giọt nuớc mắt. Nhưng sau một thoáng tư lự, Ngài lại chùi chúng đi. Thành ra
người đời sau không mấy khi thấy được những giọt lệ hiếm hoi của người cha,
mà chỉ có thể cảm và đoán được rằng ông ta đang khóc.
Xong việc, ông Trời quay lại nói với nữ thần: “Ngươi thấy đó, người cha
cũng đáng yêu như người mẹ mà ta đã dồn bao công sức để tạo ra”
1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
2. Xác định câu nghi vấn có trong văn bản trên.
3. Những đặc điểm hình thức nào cho biết đó là câu nghi vấn?
ĐỀ II
PHẦN I: ĐỌC – HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới.
CỔ TÍCH NGỌN NẾN
Một tối mất điện, ngọn nến được đem ra đặt giữa phòng. Người ta châm
lửa cho ngọn nến và nến lung linh cháy sáng. Nến hân hoan nhận ra rằng ngọn
lửa nhỏ nhoi của nó đã mang lại ánh sáng cho cả căn phòng.
Mọi người đều trầm trồ: “Ồ nến sáng quá, thật may, nếu không chúng ta
sẽ chẳng nhìn thấy gì mất”. Nghe thấy vậy, nến vui sướng dùng hết sức mình đẩy
lui bóng tối xung quanh.
Thế nhưng, những dòng sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài theo thân
nến. Nến thấy mình càng lúc càng ngắn lại. Đến khi chỉ còn một nửa, nến giật
mình: “Chết mất, ta mà cứ cháy mãi thế này thì chẳng bao lâu sẽ tàn mất
thôi. Tại sao ta phải thiệt thòi như vậy?”.
Nghĩ rồi, nên nương theo một cơn gió thoảng để tắt phụt đi. Một sợi khói
mỏng manh bay lên rồi nến im lìm.
Mọi người trong phòng nhớn nhác bảo nhau: “Nến tắt mất rồi, tối
quá, làm sao bây giờ?”. Ngọn nến mỉm cười tự mãn và hãnh diện vì tầm quan
trọng của mình. Nhưng bỗng một người đề nghị: “Nến dễ bị gió thổi tắt lắm, để
tôi đi tìm cái đèn dầu”. Đèn dầu được thắp lên, còn ngọn nến đang cháy dở thì
bị bỏ vào ngăn kéo tủ.
Ngọn nến buồn thiu. Thế là từ nay nó sẽ bị nằm trong ngăn kéo, khó có
dịp cháy sáng nữa. Nến chợt hiểu rằng hạnh phúc của nó là được cháy sáng vì
mọi người, dù chỉ có thể cháy với ánh lửa nhỏ và dù sau đó nó sẽ tan chảy
đi. Bởi vì nó là ngọn nến.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
2. Nêu công dụng của dấu ngoặc kép có trong văn bản trên.
3. Xác định câu nghi vấn có trong văn bản trên.
4. Những đặc điểm hình thức nào cho biết đó là câu nghi vấn?
GIÚP MÌNH VỚI MÌNH TICK CHO ! THANKS