Hãy sưu tầm những câu thơ, những bài viết về cảnh sắc thiên nhiên ở quê hương Việt Nam.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
những từ ngữ : mênh mông biển lúa cách cò bay rập rờn , mây mờ che đỉnh Tường Sơn sớm chiều . những câu thơ thể hiện nói lên đất nc việt năm rất đẹp , tác giả còn dùng những từ láy như mênh mông ...
- Một số bài thơ dùng hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu:
+ Bài thơ “Biển” – Xuân Diệu
… Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…
+ Bài thơ Biển nhớ - Minh Lý
Em một mình trên biển
Khung trời của riêng anh
Tình em như con sóng
Cuồn cuộn mỗi chiều hè.
Em muốn gửi cho anh
Tình muôn đời thắm mãi
Như bến bờ hoang dại
Yêu mãi biển trong xanh.
Em chờ anh về nhé
Biển mãi gọi tên anh
Gió buồn ru khe khẽ
Lời riêng em ngọt lành.
Về biển khơi anh nhé
Tình nồng bên biển xanh
Con sóng hiền vỗ mãi
Em vẫn hoài chờ anh.
- Qua các bài thơ nói mượn hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu, ta càng thấy rõ nét được những sáng tạo đặc sắc của Nhà thơ Xuân Quỳnh khi viết bài thơ Sóng: âm điệu tự nó tạo thành một hình tượng sóng, phù hợp với nhịp điệu tâm trạng của người con gái đang yêu; hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn tự bộc lộ những khát vọng, những say đắm rạo rực, những suy tư day dứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu.
"Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi là một bầu không gian lưu trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm "Bảo kính cảnh giới" chứa đựng những nét độc đáo, thấp thoáng niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là "Cảnh mùa hè".
Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường".
Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là "Rỗi, hóng mát thuở ngày trường". Nhưng "rỗi" hay "rồi" cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. "Ngày trường" lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả "Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài". Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành "hóng mát" cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
"Hòe lục đùn đùn. tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời... .
Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".
"Chợ" là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh... lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tinh cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:
"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
"Dân giàu đủ", cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn "Nam Phong" gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.
Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm "cuồn cuộn nước triều Đông". Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sông thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh "một tấc lòng ưu ái cũ". Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.
Tham khảo:
Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Đình Thi (1924- 2003), sinh ra tại Thành phố Luông Pha Băng, nước Lào.
- Ông tham gia kháng chiến và giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng.
- Nguyễn Đình Thi được xem là một nghệ sĩ đa tài, ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng trân trọng.
2. Sự nghiệp văn học
a. Phong cách nghệ thuật
- Thơ ông tự do, phóng khoáng mà vẫn hàm súc, sâu lắng, suy tư và có nhiều tìm tòi theo hướng hiện đại.
- Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Đình Thi là sự phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến. Các tác phẩm của ông đều mang tính thời sự về các cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
b. Tác phẩm chính
- Thơ: Người chiến sỹ (1958); Bài thơ Hắc Hải (1958); Dòng sông trong xanh (1974); Tia nắng (1985); Đất nước (1948 - 1955); Việt Nam quê hương ta; Nhớ; Lá đỏ...
- Tiểu thuyết "Xung kích", "Vỡ bờ"; "Thu đông năm nay" (1954), "Bên bờ sông Lô" (1957), "Vào lửa" (1966), "Mặt trận trên cao" (1967...
- Phê bình văn học: Tiểu luận "Nhận đường".
- Kịch: Con nai đen (1961); Hoa và Ngần (1975); Giấc mơ (1983); Rừng trúc (1978); Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979); Người đàn bà hóa đá (1980); Tiếng sóng (1980); Cái bóng trên tường (1982); Trương Chi (1983); Hòn Cuội (1983 - 1986).
Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ
- Bài thơ được trích từ trường ca Bài thơ Hắc Hải (1958).
b. Bố cục: 2 đoạn
- Đoạn 1 (4 câu thơ đầu): Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam.
- Đoạn 2 (đoạn còn lại): Vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam.
c. Thể loại: thơ lục bát
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
a. Giá trị nội dung
Nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thiên nhiên, con người Việt Nam, qua đó thể hiên tình yêu thương, sự gắn bó sâu sắc của tác giả đối với quê hương đất nước.
b. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ lục bát sử dụng uyển chuyển.
- Giọng điệu linh hoạt, mượt mà, gần gũi với ca dao dân ca.
- Từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường.
1. Thơ :
Mùa xuân con én đưa thoi
Thiền quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
( Truyện Kiều - Nguyễn Du )
2. - Thời tiết : ấm áp , có mưa phùn
- Sinh hoạt : rộn rã , tấp nập
- Cảnh vật : lộng lẫy , đa sắc màu
- Ấn tượng của em : những lễ hội với nhiều trò chơi hay và độc đáo
Chúc bn hc tốt ( đây là mk tự lm - k đúng thì đừng gạch đá nhá )
1. Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
Và tựa hoa tươi cánh nở dần
Từng hàng thục nữ dậy thì xuân
Đường hương thao thức lòng quân tử
Vó ngựa quen rồi ngõ ái ân.
Từng gã thư sinh biếng chải đầu
Một mình mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu.
Có những ông già tóc bạc phơ
Rượu đào đôi chén bút đề thơ
Những bà tóc bạc hiền như phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa.
Pháo nổ đâu đây khói ngợp trời
Nhà nhà đoàn tựu dưới hoa tươi
Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng:
"Chị ấy, năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang..."
2. Nét riêng quê hương mình:
- Thời tiết: ấm áp/ se lạnh/ dễ chịu/ ẩm ướt,...
- Sinh hoạt: rộn ràng/ ồn ào/ đoàn tụ,...
- Cảnh vật: xinh đẹp/ nhiều màu sắc/ sống động,...
- Ấn tượng sâu sắc nhất: không khí ấm áp vì được đoàn tụ bên gia đình mình, mọi người quây quần trò chuyện bên nhau với mâm ngũ quả, thức ăn,... Được chúc những lời ngọt ngào, may mắn,...
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Ngàn năm văn vật bây giờ là đây
Rủ nhau xem cảnh Kiếm HồThăng Long là trọng địa của nước ta được hưng khởi vào thời Lý Thái Tổ năm 1010, xưa gọi là kinh đô, cố đô...Ngày nay được gọi là Thủ đô Hà Nội, nơi phát triển đất nước, đưa đất nước vươn tầm với thế giới. Vạn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử, công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử.
2.
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Gió đưa cành trúc la đàCâu ca dao nói về những địa danh nổi tiếng ở Hà Nội như là Kiếm Hồ, Cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút
3.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Trên Chùa đã động tiếng chuôngBài thơ cho thấy được phong cảnh Hồ Tây giữa lòng Hà Nội rất nên thơ, ẩn chứa biết bao lịch sử như một bức tranh sinh động
4.
Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu
Làng tôi có lũy tre xanhCâu ca dao lột tả được hình ảnh thắng cảnh nên thơ, hữu tình, diệu kỳ đối với con người
5.
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng
Đồn rằng chợ Bỏi vui thayCa dao nói về hình ảnh những con sông nổi tiếng uốn lượn quanh xóm làng Sông Tô Lịchlà một con sông nhỏ, chảy trong địa phận thủ đôHà Nội.
6.
Đằng đông có miếu, đằng tây có chùa
Giữa chợ lại có đền thờ
Dưới sông nước chảy đò đưa dập dìu
Quê em có gió bốn mùa,Đây là nét văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện thuần phong mỹ tục của dân Việt Nam, phục hiện lại nếp sinh hoạt truyền thống.
7.
Có trăng giữa tháng, có Chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm,
Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi.
Bắc Cạn có suối đãi vàng,Bài thơ bài về quê hương của cô gái 4 mùa đều có gió, có trăng, chó chùa thể hiện sự thanh bình, bình yên nơi làng quê.
8.
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh.
Ai đi trẩy hội chùa HươngCác Tỉnh miền Bắc đều thừa hưởng di sản thiên nhiên ban tặng, những con sông, suối, hồ, đã lột tả hết sự phong phú đa dạng của thiên nhiên ở Bắc Cạn.
9.
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa,Chùa Hương – Động Hương Tích, phong cảnh thiên nhiên đẹp sắc sảo được chúa Trịnh Sâm khắc 5 chữ:“Nam thiên đệ nhất động”. Hành trình vào Động Hương Tích, từ Bến Đục sang Bến Trong, chùa Thiên Trù chập chùng giữa rừng núi bao la. Không chỉ là một thiên động đệ nhất, mà còn có lễ hội, những sản vật địa phương nổi tiếng như rau sắng, quả mơ, hồng trà, củ mài...
10.
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,Đây là những hình ảnh về các địa danh nổi tiểng ở vùng đất, nơi tậng cùng miền biên giới Lạng Sơn.
11.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đường lên Xứ Lạng bao xa,12.
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi đứng mà lại trông,
Kìa núi Thành Lạng kìa sông Tam Cờ.
Quảng Nam có lụa Phú Bông13.
Có khoai Trà Đỏa, có sông Thu Bồn
Quảng Nam là đất quê mình
Núi, đồng, sông, biển rành rành từ đâu
Bắc Thừa Thiên giáp Hải Vân
Nam thì Quảng Ngãi, giáp gần núi Phong.
Tây thì giáp đến sông Buông,
Rừng cao rừng thấp mấy tầng mây xanh.
Đông thì biển rộng thênh thang,
Đất đai trăm dặm rành rành như ghi.
Hồ Tịnh Tâm nhiều sen Bách Hợp,14.
Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam.
Đi mô cũng nhớ quê mình,15.
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Bình Định có núi Vọng Phu.16.
Có đầm Thị Nại, có cù lao xanh.
Em về Bình Định cùng anh.
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
Ai về Gia Định thì về,Hình ảnh núi Vọng Phụ như nói lên tình cảm sắc son thủy chung của người phụ nữ Việt Nam, luôn chịu thương, chịu khó vì mái ấm gia đình.
17.
Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn.
Nhà Bè nước chảy chia hai,18.
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ai ơi về miệt Tháp Mười19.
Cá tôm sẳn bắt, lúa trời sẳn ăn.
Cần Thơ gạo trắng nước trong,20.
Ai về xứ Bạc thong dong cuộc đời.
Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy,21.
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng.
Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang,
Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa?
Bến Tre dừa ngọt sông dài,22.
Nơi chợ Mõ Cày có kẹo nổi danh.
Kẹo Mõ Cày vừa thơm vừa béo,
Gái Mõ Cày vừa khéo vừa ngoan.
Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?
Ai về tới thẳng Năm Căn23.
Ghé ăn bánh gỏi Sóc Trăng, Bãi Xàu
Mắm nêm, chuối chát, khế, rau,
Tôm càng Đại Ngãi cặp vào khó quên!
Rạch Miễu văng nối hai đầu24.
Bến Tre một nửa, nửa cầu Tiền Giang
Ai về sông nước Hậu Giang
Ghé thăm xứ sở bạt ngàn sản nông
Trên trời có đám mây xanh25.
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Anh đi anh nhớ quê nhà26.
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Hai câu lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, diễn tả một tình cảm đẹp: tình thương nhớ quê nhà. Giọng thơ cũng thật bồi hồi, bâng khuâng. Điệp từ nhớ và điệp ngữ nhớ ai chính là thủ pháp tạo nên giọng thơ ấy. Cái hay, cái đậm đà của bài ca dao là nhớ hương quê, nhớ cô thôn nữ từng hẹn ước đã làm cho nỗi nhớ quê nhà thêm thiết tha, sâu nặng.
27.
Ta về ta tắm ao taDù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Câu ca dao muốn mượn cái hình thức đơn giản “ao ta” để gửi gắm tình yêu quê hương sâu nặng và một triết lí sống tự do, tự chủ và tự tin vào chính bản thân mình. Tất cả những gì của mình cũng đều đáng quý, đáng trân trọng.
Trên đây là bài viết về Ca dao tục ngữ hay về quê hương đất nước, con người, mong rằng bài viết này sẽ giúp ích các bạn có thêm nhiều kiến thức về những câu ca dao, tục ngữ hay trong kho tàng văn học Việt Nam ta.
Thơ đây
1, Chiều Thu Quê Hương
Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá,
Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ
Tiếng lao xao như ai ngả nón chào.
Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao,
Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm.
Chiều thu quê hương sao mà đằm thắm
Tôi bước giữa vườn, bạn với hàng cau
Hút nắng tơ vàng như những đài cao
Đứng lồng lộng, thu tiếng chiều vàng rợi.
Vồng khoai lang xoè lá ra nằm sưởi
Cùng với gà mẹ xoè cánh ấp con.
ở trước sân hà mấy đống gạch son,
Hố vôi trắng nằm đợi ngày xây dựng.
Trời thu trong em bé cười má ửng;
Như cây sai mẹ đứng giữa chùm con.
Chiều thu vàng vàng rực cả tâm hồn
Của đất nước đang bồi da thắm thịt.
Gió biển mặn thổi về đây tha thiết;
Những con chim phơi phới cánh, chiều thu
Náo nức như triều, êm ả như ru…
2, Hương Đất
Chuồng bò bốc ấm mùi phân ủ
Mùi cỏ còn hăng xen cọng rơm
Nắng rọi phên thưa chiều rạo rực
Ngoài vườn luống cải hoa vàng đơm.
Mùi đất mùi phân nhuyễn với nhau
Mùi bùn vừa nạo dưới ao sâu
Chua chua ráp ráp mùi ngâm mạ
Nghe nứt mầm xanh mỗi tế bào.
Quen thuộc trời này với gió này
Chiều đông gió ửng những bàn tay,
Như nghìn ngọn lửa đang nhen nhúm
Cho một mùa xuân nhựa ấm đầy.
3, Đoàn Thuyền Đánh Cá
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
4, Cửa Sông
Mặt trời là trái chín cây
Cột buồm san sát, lưới đầy cửa sông
Bão xa chưa tạnh, mây đùn
Thuyền quây đánh lộng, mai hừng ra khơi.
Buồm về rộng mở cánh dơi
Gió chênh khoang cá lườn phơi nắng vàng
Cửa sông nửa cảng, nửa làng
Nửa cồn nửa biển dịu dàng mắt ai
Mênh mông cát mịn bãi dài
Tay người đan lưới nhẹ cài hoàng hôn.
5, Gió Lạnh Chiều Đông
Gió lạnh chiều đông nhớ tuổi thơ
Bầy chim chèo bẻo nấp bên bờ
Mênh mông nước bạc đồng sau gặt
Một nỗi buồn xa như sóng xô.
Chim ở đâu về sà chớp mắt
Chim vương nhựa chết hết bay rồi
Bắt chim nghe lạnh hai đầu cánh
Tưởng mặt trời se rụng đến nơi.
Tuổi nhỏ hắt hiu giữa cánh đồng
Nửa tràn sương núi, nửa hơi sông
Có gì ẩm ướt trong hồi tưởng
Như áo ngày mưa bặn bếp hong.
Gió lạnh chiều đông xui nhớ thuở
Bầy chim chèo bẻo nấp bên bờ
Hôm ta nấp, thơ giăng lưới
Bẫy tháng năm về, bắt tuổi thơ
6, Huế Vấn Vương
Xanh mượt bờ xanh Huế Huế ơi!
Cỏ cây đây đã hoá vườn trời
Người đi bước nhẹ không nghe tiếng
Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi.
Huế hoa thiên lí mùi hương thoảng
Huế tím chiều thu dậy ước mơ
Mái đẩy câu hò ngân ánh nước
Sóng không trôi bởi luyến lưu bờ
Tuổi nhỏ đời ta Huế giữ không?
Cho ta xin lại những năm hồng
Cho ta trở lại ngày xưa cũ
Mới hái mùa thơ giữa độ bông.
Tình bạn tình yêu Huế khéo ương
Hoa xuân trái đậu tháng năm trường
Bâng khuâng nay nhện chiều giăng lưới
Bảng lảng lòng ai Huế vấn vương.
7, Mưa Xuân Trên Biển
Mưa xuân trên biển, thuyền yên chỗ
Tôm cá chắc đầy phiên chợ mai
Sắm tết thuyền về dăm khóm đỗ;
Đảo xa thâm thẩm vệt mưa dài.
Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui,
Lưa thưa mưa biển ấm chân trời.
Chiếc tàu chở đá về bến Cảng
Khói lẩn màu mây tưởng đảo khơi.
Em bé thuyền ai ra giỡn nước,
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm.
Biển bằng không có dòng xuôi ngược,
Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm.
8, Nhớ Mẹ Năm Lụt
Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn – Bố đi xa
Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh
Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà.
Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc
Thương con lúc ấy biết gì hơn ?
Nước mà cao nữa không bè thúng
Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con.
Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn
“Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng “ời”
Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau
Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn
Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu.
Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ
Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan
Nuôi con lớn giữa bao cay cực
Nước lụt đời lên mẹ cắn răng.
Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.
9, Sớm Mai Gà Gáy
Tiếng gà gáy ơi! Gà gáy ơi!
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp
Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi
Cha dậy đi cày trau kịp vụ,
Hút vang điếu thuốc khói mù bay.
Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu,
Chút cá kho tương mẹ vội bày.
Gà gáy nhà ta, gáy làng giềng
Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen…
– Cha ơi, con chửa nghe gà chú!
– Nó cũng như mày hay ngủ quên.
Hàng cau mở ngọn đón ngày vào
Xóm nhỏ nép bên triền núi cao.
Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa.
Nắng lên xoè quạt đỏ như mào.
Gà gáy ơi! Tiếng gà gáy ơi!
Nghe sao rạo rực buổi mai đời!
Thương cha lủi thủi không còn nữa
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui…
10, Say Mùa Hè
Ôi mùa hè sao mà rạo rực
Đã ve kêu: dầu phượng đỏ chưa về
Không khí bỗng xôn xao náo nức
Và lòng ta cũng thao thức trăm bề.
Những búp đa trên lề đường rụng thắm
Gọi trẻ em từ xa lắm, hè ơi!
Trời đất gọi, dẫu nhà cha mẹ cấm
Cũng ra đi – ve giục giã bồi hồi.
Yêu mùa xuân, lòng ta yêu lắm chứ
Nhưng mùa hè người mới thật mùa say
Trưa của ngày mặt trời cao tột đỉnh
Trưa của mùa, trời đất chín muồi đây.
Đời thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Để ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nắm đất quen như hạt chín sang mùa.
10.1, Núi Bài Thơ
Vách đá bài thơ vạn thuở bền
Bút nghiên trời đất nét thiên nhiên
Khắc sâu lòng đá là chi nữa?
– Sóng gió, nào thơ có ngả nghiêng
10.2, Gió Chuyển Mùa
Đêm nay gió giữa hai mùa
Thổi sao vi vút, mây lùa một bên.
Mùa quê hương, tưởng đã quen,
Nửa đêm gió thổi, nằm yên được nào!
10.3, Hoa Giữa Nắng
Hoa chanh cánh tím mùi hương thoảng
Nở góc vườn em anh nhớ dai
Thơ giữa cuộc đời, hoa giữa nắng
Du xuân con bướm quạt hương dài.
10.4, Mây Trắng
Trời nóng đêm qua mây dậy ran
Ngỡ đàn trâu bạc phá tung ràn
Giữa hè ruộng vỡ mênh mông gió
Những luống cày xô nắng, chói chang.
10.5, Trăng Xuân
Đầu năm gió mát tựa hè
Nứt bung hoa gạo bốn bề trăng xuân
Sông là người đẹp khoả thân
Núi xanh mơn mởn bước gần bước xa
Lá ngôi lá mía rì rà
Áo đêm xuân khéo mượt mà dải tơ.