viết đoạn văn nêu cảm nghĩ văn bản thuế máu :
a/ Chiến tranh và người bản xứ
b/ Chế độ lính tình nguyện
c/ Kết quả của sự hi sinh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Phần |
Nội dung chính |
I – Chiến tranh và người bản xứ |
Sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. |
II – Chế độ lính tình nguyện |
Vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. |
III – Kết quả của sự hi sinh |
Sự bỉ ổi, bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, táng tận lương tâm của bọn cầm quyền thực dân với người dân thuộc địa. |
Phần | ND chính |
I-Chiến tranh và người bản xứ | Chỉ rõ sự giả nhân nghĩa của thực dân pháp bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết thay cho bọn họ tá thực dân |
II-Chế độ lính tình nguyện | Tố cáo cái gọi tình nguyện của những người dân thuộc địa |
III- Kết quả của sự hi sinh | Nói về kết quả của sự hy sinh , vạch trần những lời lẽ lửa bịp, giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị |
“ Thuế máu” là chương mở đầu đầy máu và nước mắt trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Dưới ngòi bút nhân đạo cao cả của Nguyễn Ái Quốc, số phận của người dân thuộc địa hiện lên thật bi thảm, gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm thương cảm đến xót xa.
Đầu thế kỉ XX, một số nước lớn ở Châu Âu thi nhau xâm chiếm thuộc địa ở nhiều nơi trên thế giới để vơ vét của cải và nhân lực. Chính sách cai trị của chế độ thực dân rất hà khắc, dã man nên cuộc sống nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các nước đế quốc tranh nhau giành quyền lợi, đẩy nhân dân lao động ở nhiều nơi vào lò lửa chiến tranh thảm khốc. Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời vào thời kì ấy.
“ Bản án chế độ thực dân Pháp” được viết bằng tiếng Pháp, với tư liệu phong phú, chính xác, với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Tác phẩm cũng nói lên tình cảnh khốn cùng, tủi nhục của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới, từ đó bước đầu vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để tự giải phóng, giành quyền độc lập. Sự ra đời của bản án là một đòn giáng tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân, vạch ra con đường cách mạng và tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.
“Thuế máu” là một cách đặt tên chương gây ấn tượng mạnh, có sức biểu cảm, khơi gợi rất cao. Đây là một thứ thuế vô lí, tàn bạo, trắng trợn đến tận cùng sinh mạng của những người dân thuộc địa. Chiến tranh phi nghĩa đối với bọn đế quốc là một cách để làm giàu nhanh nhất và bóc lột xương máu của người dân thuộc địa mà chúng tự phong cái nghĩa vụ khai hóa, bảo hộ. Đó là cuộc chiến tranh mang lại lợi nhuận lớn. Bóc lột sức lực, mồ hôi đã là một tội ác. Bóc lột xương máu lại là một tội lớn hơn. Bản chất độc ác ấy đã được vạch trần, phanh phui trên báo chí, bộ mặt của bọn thực dân hiện nguyên hình là “mặt người dạ thú”, tội ác của chúng được lôi ra ánh sáng, trước vành móng ngựa của lương tri. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương đầu của tác phẩm vừa theo lô gich thời gian, trọn vẹn một quy trình tội ác. Hình thức đầu cuối tương ứng trong kết cấu tạo nên sự va đập dữ dội trong tâm trí của người đọc.
Phần một: Chiến tranh và “người bản xứ” – bộ mặt của bọn thực dân và số phận của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Qua ngòi bút của mình, Nguyễn Ái Quốc nêu bật sự đối lập trong trạng thái của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước chiến tranh và khi chiến tranh bùng nổ.
Trước khi chiến tranh bùng nổ, người dân thuộc địa được các nhà cai trị gọi là những đứa “con yêu, những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Để đạt được tham vọng đầy tội ác, chúng đã không từ thủ đoạn bỉ ổi,hạ mình, tâng bốc, vỗ về, phong tặng cho người dân thuộc địa những danh hiệu cao quý để dễ bề biến họ thành vật hi sinh bảo vệ quyền lực và lợi ích của chúng. Tác giả đã lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa hèn hạ đó bằng việc đối lập thái độ của chúng đối với người dân thuộc địa trước và sau cuộc chiến tranh phi nghĩa mà tác giả mỉa mai là “cuộc chiến tranh vui tươi”. Trước chiến tranh, họ bị nhà cầm quyền coi là giống người hạ đẳng, bẩn thỉu, bị đối xử đánh đập như những con vật ghê tởm.
Đến khi chiến tranh bùng nổ, họ lập tức biến thành những anh hùng của “đất mẹ”. Đó là thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân. Bằng giọng điệu mỉa mai, đả kích sâu cay, tác giả đã lấy lại chính các từ ngữ, hình ảnh trong lời lẽ của bọn thực dân để lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng như những đòn gậy ông đập lưng ông một cách hiệu quả.
Số phận của người dân thuộc địa được tác giả miêu tả rất cụ thể: “họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của học để vượt đại dương đi phơi thây trên các bãi chiến trường Châu Âu. Tác giả kể bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất đầy xót ca, ngậm ngùi. Để vòng nguyệt quế và chiếc gậy của các quan toàn quyền lớn bé.. được tươi đẹp và vững chắc, người dân thuộc địa đã bị biến thành một thứ thuế máu vô cùng dã man và thương tâm. Để bảo vệ cho thứ công lí và tự do mà họ không hề được hưởng thụ, họ đã phải phơi thây trên các bãi chiến trường: kẻ thì vùi xác nơi đáy biển, người thì bỏ thây ở những miền hoang vu, kẻ thì chôn thân trong các bãi lầy, người thì kiệt sức trong các xưởng thuốc súng khạc ra từng miếng phổi.. tổng cộng, tám vạn người bản xứ đã bỏ mạng. Tác giả đã nêu lên một con số khủng khiếp về số người bản xứ bỏ mạng trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất.
Phần hai: chế độ lính tình nguyện- các thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân.
Trong khi chính quyền thực dân rêu rao về việc tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa thì sự thực “chế độ lính tình nguyện” đã được tác giả miêu tả một cách sống động: Nhà cầm quyền phải lùng ráp, săn bắt, cưỡng bức thứ vật liệu biết nói đi lính; các quan được dùng bất cứ mọi thủ đoạn, miễn là bắt đủ người; các quan tranh thủ chuyên bắt lính để xoay sở kiếm tiền, hoặc đi lính hoặc xì tiền ra; người bị bắt đi lính tìm mọi cách để trốn thoát, tự làm cho mình nhiễm bệnh nặng như bệnh mắt toét chảy mủ,.. để trốn lính. Không hề có sự tình nguyện nào, hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Bằng những dẫn chứng sinh động, hùng hồn và giọng điệu giễu cợt. mỉa mai, tác giả đã vạch trần các thủ đoạn bắt lính tàn bạo, trắng trợn, trơ trẽn của chính quyền thực dân Pháp.
Tác giả mỉa mai chua chát luận điệu dối trá của chính quyền thực dân bằng những câu hỏi từ: “nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn?Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân tấp nập và không ngần ngại?”
Trong phần này, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thực tố dối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền để lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng trong chính sách cai trị đối với người dân thuộc địa.
Phần ba: kết quả của sự hi sinh- cách đối xử của chính quyền thực dân đối với những người đi lính sau chiến tranh.
Sau khi đã đóng xong khoản thuế máu cho chính quyền thực dân, những người đi lính đã được ghi nhớ công lao, được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chi tiết tiêu biểu có sức tố cáo lớn. Bộ mặt trơ tráo của chính quyền thực dân trắng trợn qua những hành động vô nhân đạo: họ bị lột hết của cải, đồ dùng cá nhân và được đối xử như súc vật trên tàu trở về nước. Họ được đón tiếp bằng bài diễn văn yêu nước rẳng:”bây giờ chúng tối không cần các anh nữa, cút đi”. Mỉa mai thay, khi chiến tranh vừa kết thúc thì các lời tuyên bố tình tứ của các nhà cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người lính từng được tâng bốc bây giờ mặc nhiên trở lại “ giống người bẩn thỉu” như trước đây.
Bằng những hình ảnh chọn lọc, dẫn chứng sinh động, tác giả đã kịch liệt tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn nhẫn, trắng trợn của thực dân Pháp. Đến đây, chúng đã hiện nguyên hình là một lũ “cá mập thực dân” tàn bạo, bỉ ổi. thái độ căm phẫn của tác giả càng về sau càng được bộc lộ trực tiếp, mạnh mẽ và mãnh liệt hơn.
Ba phần của chương được kết cấu theo trình tự thời gian: trước, trong, sau khi xảy ra chiến tranh, với cách sắp xếp như vậy, bộ mặt của chính quyền thực dân đã được vạch trần một cách toàn diện sâu sắc. Đổi lại, số phận của người dân nô lẹ cũng được phơi bày một cách đầy đủ và tột cùng của sự thảm thương.
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật châm biếm đả kích, sắc sảo. Lựa chọn và xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tính gợi cảm và sức mạnh tố cáo, ngay cả ngôn ngữ cũng đậm màu sắc trào phúng, châm biếm.
Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và biểu cảm được kết hợp chặt chẽ. các hình ảnh, sự kiện con số có tính xác thực được kết hợp với giọng kể mang đậm màu sắc trào phúng làm cho đoạn trích có tính hiện thực vừa mang tính biểu cảm cao, gợi lên những xúc cảm mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Thuế máu đã vạch trần bản chất độc ác, bỉ ổi của thực dân Pháp qua việc dùng người dân thuộc địa làm thứ thuế máu dã man và thương tâm trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nguyễn Ái Quốc đã lên án tội ác của chúng bằng những tư liệu phong phú, xác thực, hùng hồn.
tham khảo nha:
Mẹ của En-ri-cô có tình yêu thương con sâu sắc, cao cả. Bà tận tụy, lo lắng cho En-ri-cô suốt ngày đêm trong những ngày cậu ốm: “thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con” bà cũng giống như bao bà mẹ khác, luôn quan tâm, săn sóc và hết mình vì con. Thậm chí bà còn có thể hi sinh vì con “bỏ hết một năm hạnh phúc” để “tránh cho con một giờ đau đớn” hình ảnh tương phản kết hợp với “mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con” càng làm nổi bật rõ hơn sự hi sinh, tình yêu thương của bà dành cho đứa con yêu quý của mình. Không chỉ yêu thương con, mẹ còn có vị trí vô cùng quan trọng với con. Mẹ là điểm tựa, là sự cưu mang, che chở trong suốt cuộc đời con: “mong ước thiết tha được nghe lại tiếng nói của mẹ, được mẹ dang tay đón vào lòng”, dù có khôn lớn trưởng thành thì cũng sẽ cảm thấy yếu đuối nếu không có mẹ ở bên che chở. Nỗi bất hạnh, đau đớn nhất đối với con là không còn mẹ: “ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ”. Bằng những lời lẽ vừa tha thiết, xúc động vừa nghiêm khắc, cảnh tỉnh người cha đã cho thấy vai trò to lớn của mẹ trong cuộc đời mỗi con người và “thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình yêu thương đó”. Văn bản đã cho thấy chân dung của một người mẹ có tình yêu thương con tha thiết, sâu nặng mà thầm lặng và vị tha. Qua hình ảnh người mẹ của En-ri-cô, ta càng thấy yêu mẹ hơn vì tình yêu thương vô bờ bến của người dành cho ta. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần phải yêu quý, kính trọng cha mẹ, cố gắng thành người để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục lớn lao của cha mẹ đối với mình.
Những yếu tố biểu cảm trong phần I - Chiến tranh và "Người bản xứ" được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.
Những yếu tố biểu cảm trong " Chiến tranh và người bản xứ" ( Thuế máu) được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập hoặc mang tính chất mỉa mai châm biếm.
+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu >< những đứa con yêu và những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.
+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột lìa xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường.
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng.
+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy.
+ Khạc ra từng miếng phổi.
- Tác dụng của những từ ngữ này:
+ Giúp người đọc thấy được bản chất lọc lõi, lừa đảo và bộ mặt thâm độc, quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn cho chúng.
* Bản chất của lính tình nguyện:
- Thực dân Pháp rêu rao rằng tuyển lính tình nguyện nhưng thực chất là bắt lính rất tàn bạo, dã man. Đây là cơ hội để bọn chính quyền tay sai ở các sứ thuộc địa ra tay cơ vét, mòn rút của nhân dân: Những kẻ có tiền sẽ đi tìm cách đút lót cho chính quyền tay sai của TD Pháp.
+ Những kẻ không có điều kiện chi tiền đành chấp nhận đi lính cho Pháp.
+Chiến tranh tàn khốc, người chịu hi sinh oan ức. Người bị tàn phế, thương tật suốt đời. Vì thế có nhiều người tự hủy hoại cơ thể mình để khỏi đi lính.
=> Ta thấy thực dân Pháp rất tàn bạo và vô cùng xảo quyệt. Chúng rêu rao là tuyển lính tình nguyện nhưng thực chất là lạm dụng để bắt người khác, những người không thuộc chủng tộc họ phải chiệu hi sinh.
* Đoạn văn:
Trước chiến tranh, những người bản xứ - người dân ở xứ thuộc địa của Pháp, đó là những người bẩn thỉu, họ bình đẳng, bị bọn thực dân Pháp khinh miệt tìm mọi cách để bóc lột, đè đầu cưỡi cổ. Người Việt Nam bị thực dân Pháp gọi bằng cái tên khinh miệt'' AN-nam-mít'' chỉ biết kéo xe, làm phu tại các đồn điền, luôn bị bọn quan Pháp đánh đập. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, thực dân Pháp đang rất cần đến lực lượng tham gia chiến đấu. Lúc này người dân bản sứ được thực dâ Pháp vỗ về, vút ve, ca ngợi họ. Nhưng kêt qur của những những người bản xứ khi trở về không phải là những lời ca tụng như trước chiến tranh nữa. Mà thứ họ chịu đựng là sự hi sinh ở các chiến trường hoặc bị tàn phế thương tật suốt đời bị hất hủi.
Trong văn bản "Mẹ tôi", mẹ của En-ri-cô là người mà "cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ khi nghĩ rằng mình có thể mất con!" qua lời của bố. Bố En-ri-cô đã khéo léo nhắc lại những kỉ niệm của hai mẹ con. Mẹ En-ri-cô có thể "hi sinh một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con". Người mẹ có tấm lòng yêu thương con hết mực, luôn hướng về con, giành mọi điều tốt lành cho con. Người mẹ sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của con, mỉm cười với con khi con nhận lỗi. Trong thư, người bố đã nói hết về người mẹ của En-ri-cô. Mẹ không bao giờ than khổ khi nuôi con khôn lớn. Mẹ sẽ luôn dõi theo con dù con ở nơi nào. Ôi! Lòng mẹ bao la biết bao! Những ai đã làm mẹ buồn, họ "sẽ cay đắng khi nghĩ lại nhưng lúc làm cho mẹ đau lòng...". "Lương tâm con sẽ không một phút nào yên tĩnh"... Những lời của bố vừa nghiêm khắc vừa có sức lay động đối với tấm lòng En-ri-cô. Mẹ En-ri-cô tuy không xuất hiện trực tiếp trong văn bản nhưng qua lời bố, hình ảnh người mẹ đã được thể hiện rất rõ. Đó là một người mẹ có tấm lòng bao dung, cao cả vô bờ.
Tham khảo!
Mẹ của En-ri-cô có tình yêu thương con sâu sắc, cao cả. Bà tận tụy, lo lắng cho En-ri-cô suốt ngày đêm trong những ngày cậu ốm: “thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con” bà cũng giống như bao bà mẹ khác, luôn quan tâm, săn sóc và hết mình vì con. Thậm chí bà còn có thể hi sinh vì con “bỏ hết một năm hạnh phúc” để “tránh cho con một giờ đau đớn” hình ảnh tương phản kết hợp với “mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con” càng làm nổi bật rõ hơn sự hi sinh, tình yêu thương của bà dành cho đứa con yêu quý của mình. Không chỉ yêu thương con, mẹ còn có vị trí vô cùng quan trọng với con. Mẹ là điểm tựa, là sự cưu mang, che chở trong suốt cuộc đời con: “mong ước thiết tha được nghe lại tiếng nói của mẹ, được mẹ dang tay đón vào lòng”, dù có khôn lớn trưởng thành thì cũng sẽ cảm thấy yếu đuối nếu không có mẹ ở bên che chở. Nỗi bất hạnh, đau đớn nhất đối với con là không còn mẹ: “ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ”. Bằng những lời lẽ vừa tha thiết, xúc động vừa nghiêm khắc, cảnh tỉnh người cha đã cho thấy vai trò to lớn của mẹ trong cuộc đời mỗi con người và “thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình yêu thương đó”. Văn bản đã cho thấy chân dung của một người mẹ có tình yêu thương con tha thiết, sâu nặng mà thầm lặng và vị tha. Qua hình ảnh người mẹ của En-ri-cô, ta càng thấy yêu mẹ hơn vì tình yêu thương vô bờ bến của người dành cho ta. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần phải yêu quý, kính trọng cha mẹ, cố gắng thành người để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục lớn lao của cha mẹ đối với mình.
Tác phẩm ‘Bản án chế độ thực dân Pháp’ có chương Thuế máulà chương đầu nói về ‘chiến tranh và người bản xứ’. Bài viết có 3 phần:
Phần 1:Bác nói về chiến tranh và số phận người bản xứ đối với cuộc chiến tranh ở nơi ‘nước mẹ: Đại Pháp’và ở chiến trường Châu Âu.
Đây mới chỉ là mở đầu của cái giọng lưỡi ‘thực dân’ qua mồm những tên ‘toàn quyền lớn’, ‘toàn quyền bé’. Chúng vuốt ve đưa ra những lời đường mật biến dân ‘An-nam-mít’ bẩn thỉu xưa nay chỉ đối xử bằng dùi cui, roi vọt nay lại được gọi là những ‘con yêu’, ‘bạn hiền’.Hơn thế nữa họ còn được ông Tây bà đầm phong tặng là những ‘chiến sĩ bảo vệ công lývà tự do’.Kết quả, được rắc lên số phận dân nô lệ những lời mĩ miều ấy,họ phải xa lìa gia đình vợ con - bỏ xác trên bờ sông Mác-rơ hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-pơ.
Cuối phần này Bác đã tố cáo nỗi đau của người bản xứ bằng những hình ảnh thật ấntượng. Bác viết: 'kẻ cầm súng thì bỏ xác nơi chiến địa để lấy máu minh tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm lên những chiếc gậy của các ngài thống chế’.
Còn những ‘lính thợ’ởhậu phương thì nhiễm luồng khí độc. Những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.
Cuối cùng là một bảng thông kê: có 70 vạn người bản xứvà trong số ấy tám vạn người đã không bao giờ còn thấy mặt trời quê hương nữa!
Phần 2:Bác đã nêu lên ‘Chếđộ lính tình nguyện’
Đây lại cũng chỉ là giọng lưỡi bọn ‘xâm lược Pháp’ tô vẽ, lấp liếm cho sự bóp nặn của chúng bằng đủ mọi thứ thuếkhoá, mà việc đi lính là một thứ thuế máu!
Chiến tranh là cái cớ cho bọn thực dân bắt lính mà được dùng bằng một danh từ mỉa mai: ‘chếđộ lính tình nguyện’.
Phần này Bác đã phơi bày ra ánh sáng cái hành động ‘đàn áp để bắt lính’. Trước hết những người nghèo khổ thì bị lùa vào trại giam giữ cho khỏi trốn. Còn người giàu thì xì tiền ra... Người bản xứ phải tìm cách thoát thân bằng nhiều cách: ‘tự nhiễm’ cho mình những bệnh nặng... thậm chí còn xát vào mắt nhiều thứ chất độc như ‘vôi sống’hay ‘mủ của bệnh lậu’.
Trong lúc ấy thì phủ Toàn quyền Đông Dương hứa hẹn sẽ ban tặng phẩm hàm cho những ai còn sống sót. Chúng đã trịnh trọng tuyên bố ‘các bạn đã tấp nập đầu quân’nhưng thực tế thì nhiều tốp người bị xích tay đưa xuống tàu bị nhốt vào một trường học ở Sài Gòn.
Cuối phần này, Bác đã vả vào miệng bọn chúng bằng cách nói lên các cuộc biểu tình ở Cao Miên và những vụ bạo động ở Sài Gòn, Biên Hoà để phản đối việc bắt lính ở dân bản xứ.
Phần thứ 3:Bác muốn nói đến kết quả của sự hi sinh của người bản xứ.
Phần này Bác lên tiếng tố cáo bọn thực dân Pháp bằng hai sự việc:
- Nếu ai còn sống mà trở về thì mặc nhiên trở lại ‘giống người bần thỉu’.Khi bước chân xuống tàu để về bản xứ thì bị lột hết tất cả các thứ họ tự mua sắm được.
Họ ‘được’xếp như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm trớt, thiếu ánh sáng, thiếu không khí. Rồi họ còn được nghe đón chào bằng lời diễn văn ‘hoa mĩ’thể hiện tâm địa của bọn thực dân quen lật lọng: ‘cức anh đã bảo vệ tổ quốc... Bây giờ chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi! ‘
- Nếu là thương binh Pháp mất một phần thân thể và vợ của tử sĩ người Pháp thì được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện.
Là người nhìn thấy tim đen của bọn thực dân, Bác đã lên án chúng phạm hai tội ác một lúc. Một mặt chúng coi rẻ tính mạng xương máu của những ai bị lừa bịp. Mặt khát chúng vung tay đầu độc để gây thêm tệ nạn xã hội.
Bằng nghệ thuật tương phản và lối viết dí dỏm sắc sảo, Bác Hồ đã đứng lên tầm cao để tố cáo bọn thực dân Pháp.
Bởi vậy ngay từ thuở ấy ‘Thuế máu’nói riêng và ‘Bản án chế độ thực dân Pháp’nói chung là tác phẩm chính luận giàu tính chiến đấu và hiện thực có giá trị tố cáo rất sâu sắc và thức tỉnh lòng người.
VỀ BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THựC DÂN PHÁP
‘Với lối văn giản dị, trong sáng, bằng những lời lẽ đanh thép và châm biếm sâu sắc, tác phẩm (Bản án chế độ thực dân Pháp) của Người đã lên án chế độ thực dân nói chung và chế độ thực dân Pháp nói riêng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Với những bằng chứng cụ thể, tác phẩm của Người đã vạch trần chủ nghĩa đế quốc là nguồn gốc của mọi sự áp bức và bóc lột, giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa ngày càng khổ cực và bị tàn sát rất dã man. Bản án chế độ thực dân Pháp là một đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc và bước đầu vạch ra con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn của nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức khác. Tác phẩm ấy không những là một văn kiện lịch sử quý giá về lí luận và tư tưởng, đồng thời còn có giá trị lớn về văn học, cho nên dễ thấm sâu vào tư tưởng và tình cảm của người đọc’.
mình nghĩ bạn nên xen thêm vào vài yếu tố biểu cảm thì sẽ thu hút người đọc hơn