K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế. Truyền thuyết Thánh Gióng là truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này.

Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng như thường ngày, trông thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, chín tháng mười ngày qua đi, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.

Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:

- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.

Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.

Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.

Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.

Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.

Nhiều thời đại qua đi, truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng vẫn được lưu giữ và truyền tụng mãi trong dân gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thánh Gióng chính là biểu tượng cho ước mơ, sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta.

Vào thời vua Hùng Vương thứ sáu,ở một làng thuộc bộ Vũ Ninh,có một người đàn bà tuổi đã già mà vẫn một thân một mình. Một hôm,bà ta lên gò cao để kiếm củi,bỗng thấy một thân người rất lớn. Bà đứng ngắm nghía một lúc, rồi thử ướm bàn châm mình vào,từ đó,bà cảm giác trong người có thay đổi,ngày một khác thường vì thấy mình đã thụ thai. Đủ ngày,đủ tháng,bà sinh ra một đứa con trai bự bẫm,khôi ngô,nhưng chỉ phải cái nó không cười và cũng không khóc bao giờ. Thấm thoát đứa bé đã được ba tuổi,mà vẫn cứ nằm trơ trơ,không lâyd,không bò,không cười,không nói. Nhà chỉ có một mẹ,một con,nên sau khi cho con ăn no rồi,người mẹ cho con vào nôi và đặt một chiếc gióng trên sàn nhà để đi làm. Hàng xóm láng giềng thấy thế thì gọi thằng bé là thằng Gióng. Lúc bấy giờ có đám giặc Ân kéo đến đánh phá đất Văn Lang ta. Quân giặc rất hung hãn,đi đến đâu chúng cũng đốt nhà phá cửa,hoa màu,giết ông già,đàn bà,con trẻ,cướp súc vật đem đi. Quân nhà vua đánh dẹp mãi không nổi. Vua Hùng Vương rất lấy làm lo lắng bèn sai sứ giả đi rao khắp thiên hạ để xem có người nào tài giỏi cầm quân đánh giặc. Một hôm,sứ giả đi đến bộ Vũ Ninh,đến làng mẹ con chú bé Gióng. Nghe sứ giả rao,bà già vỗ vào lưng con,nhìn vào mặt con,sẽ nói giỡn với con rằng : - Thằng cu này bao giờ mới đi dẹp giặc được đây ! Bỗng bà thấy đứa trẻ há miệng cười. Bà vui sướng quá nhưng lại tưởng mình hoa mắt,vừa toan định thần nhìn lại,thì đứa trẻ đã ngồi nhỏm dậy,bảo với mẹ rằng : -Mẹ ơi,mẹ gọi sứ giả vào đây cho con! Thấy con biết cười,biết nói,biết ngồi,bà cụ mừng cuống quýt,bà không hiểu gọi sứ giả vào để làm gì,nên bà có ý ngần ngại. Sau thấy con thúc giục,bà cụ chiều con,chạy ra gọi sứ giả vào nhà. Thấy sứ giả đến,chú bé ngồi nghiêm chỉnh,nói với sứ giả : - Ngươi hãy về tâu với vua sắm cho ta một thanh doi sắt,một cái nón sắt ,một bộ áo giáp sắt và một con ngựa sắt thật lớn. Ta sẽ đánh tan giặc ngay. Sứ giả lấy làm lạ,về tâu với vua. Vua đang chờ mong tướng tài để dẹp giặc,nên đã truyền lệnh ngay cho thớt rèn đúc đủ các thứ: roi sắt,nón sắt,giáp sắt,ngựa sắt;mọi thứ đều thật lớn và thật tốt. Còn chú bé từ lúc ngồi dậy được thì ăn khỏe quá chừng. Chú bảo với mẹ : -Mẹ thổi cho con thật nhiều cơm,đem cho con thật nhiều thịt và rau để con ăn,nay mai con còn đi đánh giặc. Chẳng bao lâu mà nhà có bao nhiêu thóc gạo thì chú đều ăn hết sạch. Bà cụ chạy ăn cho con thật vất vả mà vẫn không sao đủ được. Chú bé cứ mỗi ngày ăn một nhiều và to lớn nhanh như thổi,ngồi xếp bằng tròn mà đầu chậm vào nóc nhà. Xóm làng thấy thế người giúp gạo,người giúp thịt,giúp rau đậu; có bao nhiêu là chú đêyf ăn hết sạch. Khi sứ giả nhà vua chở roi sắt,nón sắt,giáp sắt và ngựa sắt đến thì chú bé bước ra khỏi nhà,vươn vai một cái thì người cao hơn một trượng,tướng mạo oai nghiêm,trong rõ ra một nhà Trời. Viên tướng mặc giáp sắt,đội nón sắt,cầm roi sắt,ngửa mặt lên trời,rồi vỗ mạnh lên lưng ngựa sắt. Ngựa sắt chồm lên,thét ra một luồng lửa như cầu vồng...Viên tướng nảy lên mình ngựa,phi như bay,mỗi buoces chân ngựa dài đến hai đến ba con sào. Chỉ chớp mắt là viên tướng đã phi thẳng vào đám giặc hàng trăm vạn,như đi vào chỗ không người. Viên tướng liền vung roi sắt đến đâu là quân giặc tan xương nát thịt đến đấy. Ngựa sắt thét vâng và phun lửa,rung chuyển cả trời,đốt cháy hết trại giặc và cả khu rừng gần đó. Roi sắt gãy,viên tướng ngồi trên mình ngựa với tay nhỏ những bụi tre bên đường,quật vào đám giặc. Giặc chạy tán loạn. Đuổi đến trên núi Sóc Sơn thì giặc không một mống nào,thấy nằm ngổn ngang khắp cánh đồng,khắp gò núi,máu chảy như suối. Giết giặc xong,viên tướng cởi giáp,bỏ nón bên đường,rồi từ từ cả người lẫn ngựa đều bay về trời...Trời đang u ám,bỗng đỏ hồng như lửa. Rồi mây hồng dần nhạt,trời xanh biếc một màu;gió thổi vi vu qua ngọn cỏ lá cây,như tấu một khúc nhạc ca ngợi cảnh thanh bình trở lại... Về sau,ở đất Vũ Ninh những đám tre nhổ đi còn sót lại rễ,đâm lên những cây tre màu vàng nhạt như ngà,gọi là tre đằng ngà;nó đã được qua cuộc thử lửa nên đốt nó rất thẳng. Ở khu rừng cháy,về sau nhân dân lập thành xóm gọi là làng Cháy. Còn những ao nước hình tròn ngày nay người ta thấy một dãy dài trên khắp cánh đồng và gồ đống từ Kim Anh,Đa Phúc đến Sóc Sơn,tục truyền là vết chân ngựa của Thánh Gióng. Làng của Thánh Gióng,đời sau gọi là làng Gióng. Vua nhớ ơn anh hùng sai lập đền thờ trên nền nhà cũ và truy tặng là Phù Đổng Thiên Vương,nên làng Gióng có tên là làng Phù Đổng.
19 tháng 12 2019

Tham khảo:

Dưới thời Hùng Vương thứ sau trị vì, nhân dân chúng tôi có cuộc sống vô cùng ấm lo. Cuộc sống ở nơi làng quê nơi tôi sinh sống vô cùng êm đềm, có của ăn của để cũng không phải nghèo đói gì. Chuyện kể là hàng xóm nhà tôi hiếm con, hai vợ chồng nhà ấy cũng thật thà, chân chất, ấy vậy mà cưới nhau bao nhiêu năm cầu mãi chả được mụn con nào. Một hôm tôi đang ngồi sà ng gạo chợt thấy ông chồng mặt mày hớn hở sang khoe, vợ lão đi làm đồng về ướm chân vào vết chân lạ rồi tự nhiên về có thai. Nhìn mặt ông ấy vui lắm, miệng còn luôn lẩm bẩm:" Trời ban phước, trời ban phước".  

Thế là chín tháng mười ngày sau mà bà vợ không thấy sinh. Đến cả người chồng cũng bắt đầu lo lắng sốt ruột. Cả làng chúng tôi cũng tò mò về đứa bé này, Đến tận mười hai tháng, bà vợ chuyển dạ sinh ra một cậu bé kháu kỉnh vô cùng. Lúc đấy tất cả mọi người mới thở phào nhẹ nhõm, còn người cha thì vui mừng ra mặt. Thấm thoát trôi qua đã ba năm, mà chẳng hiểu sao đứa bé này từ khi sinh ra chẳng nói chẳng cười cứ nằm im một chỗ. 

Lúc bấy giờ giặc Ân sang xâm lược nước ta, chúng cướp bóc, chém giết, làm cho dân ta rất điêu đứng. Thế giặc mạnh khiến nhà vua vô cùng lo lắng truyền sứ giả đi khắp làng trên xóm dưới chiêu mộ người tài.  Khi sứ giả của vua đến làng tôi, đứa bé đang nằm bỗng dưng lên tiếng:

- Mẹ cà, mẹ ra mời sứ giả vào đây

Người mẹ kinh ngạc quá, liền làm theo. Sứ giả và mọi người nghe thế đến xem đông lắm. Đứa bé dõng dạc nói với sứ giả giọng điệu của một người trưởng thành chứ chẳng có gì giống của một đứa trẻ lên ba cả:

-Ngài về tâu với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan giặc.

Sứ giả mừng rỡ, tức thì trở về triều. Nhà vua nghe tâu, truyền ngay thợ rèn ngày, đêm làm gấp các thứ chú bé đã dặn. 

Sau lúc gặp sứ giả, cậu bé bắt đầu lớn nhanh vùn vụt. Cơm mấy cũng không no, áo may xong mặc vào đã chật. Thóc gạo của cha mẹ không đủ nuôi chú bé ăn. Dân làng chúng tôi bèn rủ nhau góp thêm thóc gạo để nuôi chú bé.

Lúc ấy, quân giặc đã tiến vào tận chân núi Trâu gần kinh thành, tình thế rất nguy hiểm. Ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt vừa rèn xong, vua cho đưa ngay đến làng Phù Đổng. Vừa nhìn thấy các thứ đó, chú bé liền vươn vai một cái, biến ngay thành một tráng sĩ khổng lồ trông lẫm liệt như người nhà trời. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa tung vó lao như bay về phía quân giặc. Tráng sĩ vung roi quật tới tấp, giặc chết như rạ. Ngựa sắt vừa phi vừa phun lửa, thiêu cháy từng lớp quân giặc. Giặc đông quá, tráng sĩ vung roi không ngừng. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn giơ tay nhổ lấy những bụi tre bên đường, cứ nguyên cả bụi mà quật vào giặc.

Giặc tan vỡ, rút chạy tán loạn. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Sóc. Đến đây thấy giặc đã tan, tráng sĩ dừng lại, cho ngựa chậm rãi đi lên núi. Tráng sĩ cởi áo giáp, bỏ lại trên đỉnh núi rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Nhà vua nhớ ơn người có công lớn đánh giặc cứu nước, bèn phong là Phù Đổng Thiên Vương, nghĩa là vua trời làng Phù Đổng, và lập đền thờ tại quê mẹ của người. Dân chúng thì gọi tráng sĩ theo cách giản dị là Thánh Gióng. Con đường Thánh Gióng ngày xưa đi đánh giặc ngang qua huyện Gia Bình này, mỗi cái ao bây giờ là một dấu chân ngựa của Thánh Gióng ngày đó. Tre đằng ngà ở đây bây giờ có màu vàng óng là vì xưa kia đã bị lửa của ngựa sắt đốt cháy. Làng này vẫn giữ lại tên cũ là làng Cháy

19 tháng 12 2019

ko chép trên mạng

8 tháng 9 2016

Chủ đề đánh giặc cứu nước, giành thắng lợi là chủ đề lớn, xuyên suốt trong dòng văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Trong đó, truyền thuyết Thánh Gióng là truyện dân gian thể hiện chủ đề này thật tiêu biểu và độc đáo. Truyện kể về ý thức và sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của dân tộc ta. Hình tượng Thánh Gióng hiện lên với nhiều chi tiết nghệ thuật hay và để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Không những thế, truyện Thánh Gióng còn chứa đựng những chi tiết thật hoang đường, kỳ ảo. Ban đầu là mẹ của Thánh Gióng đi ra đồng, ướm thử chân mình vào một dấu chân rất to lớn, rồi sau đó về nhà bà mang thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Có ai lại mang thai tới mười hai tháng bao giờ? Điều này cũng chính là dấu hiệu báo cho ta có thể biết trước sự lạ lùng về chú bé. Quả đúng như vậy, chú bé được sinh ra khôi ngô, tuấn tú nhưng lạ thay, lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, đứng, nói, cười; đạt đâu thì nằm đó. Thật khác hẳn với những em bé bình thường. Chú bé này thật khác lạ khiến mọi người ai cũng cảm động và lo lắng cho chú. Nhưng khi có giặc Ân kéo đến xâm phạm bờ cõi Văn Lang, chú bé liền cất tiếng nói. Và tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc. Chú bé đã bật ra tiếng nói kịp thời, tiếng nói cất lên khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Tiếng rao của sứ giả ờ đây chính là lời hiệu triệu của Vua Hùng, là tiếng gọi của non sông đất nước khi Tổ Quốc lâm nguy. Chi tiết này làm em thật cảm động. Chú là người yêu quê hương đất nước tha thiết. Lòng yêu quê hương đất nước tha thiết đã giúp chú bé mới ba tuổi không nói, không cười lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt với ý chí quật cường có thể dời non, lấp biển. Thánh Gióng là một biểu tượng của muôn người gộp sức, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.Khép trang sách lại mà hình tượng Thánh Gióng vẫn đọng mãi trong tâm trí em - một hình tượng nghệ thuật dân gian tuyệt đẹp, tràn đầy tư tưởng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết thắng. Quả là không có hình tượng nào sánh kịp.


 

8 tháng 9 2016

chị là vị cứu tinh của em

em đang lo ko có bợn nào trả lời

phùuuuuuuuu

thanks

Ta là Thánh Gióng nhờ có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược nên ta đã được vua phong ân Phù Đổng Thiên Vương và được dân làng lập đền thờ ở quê nhà. Hôm nay ta sẽ kể lại chiến tích đánh đuổi giặc Ân năm đó.

Năm đó vào đời Hùng Vương thứ sáu, Ngọc Hoàng cử ta xuống giúp dân đánh đuổi quân xâm lược nên đã cho ta đầu thai vào một gia đình ở làng Gióng, gia đình chỉ có hai vợ chồng ông lão vừa chăm chỉ làm ăn lại vừa phúc đức. Hai ông bà ao ước có đứa con nhưng mãi không có, Ngọc Hoàng mới ban phép màu tạo ra bàn chân to lạ thường, khi bà lão đi ra đồng nhìn thấy bàn chân rất to liền đặt bàn chân mình ướm vào, rồi khi về nhà bà liền có thai, 12 tháng sau thì hạ sinh ra ta. Hai ông bà rất mừng rỡ trước sự khôi ngô tuấn tú của ta, nhưng buồn thay vì sứ mệnh nên dù đã lên ba tuổi ta cũng không nói, không cười và không đi đứng gì, cứ đặt ở đâu thì ta nằm ở đấy. Đến một ngày trước sự xâm lược của giặc Ân, nhà vua lo lắng sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước, đây cũng là lúc ta phải thực hiện sứ mệnh của mình, khi nghe được tiếng rao ta liền cất tiếng nói, nói với mẹ rằng: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Khi gặp sứ giả ta liền nói với ông ta: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Ông sứ giả này nghe ta nói vậy kinh hãi hồi lâu nhưng rồi liền mừng rỡ và về tâu lại lời của ta cho vua nghe, vua nghe được tin liền truyền lệnh cho thợ ngày đêm làm thật nhanh những đồ mà ta đã yêu cầu.

Để chuẩn bị cho sứ mệnh đánh đuổi giặc sắp tới, ta bắt đầu lớn nhanh hơn, ăn mãi không no, cứ đem bao nhiêu đồ ăn ra cũng hết, vừa ăn vừa lớn đến nỗi áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Ta ăn nhiều tới nỗi hai ông bà lão có làm ra không đủ nuôi ta, phải nhờ cả bà con làng xóm, khi ấy vì sự nghiệp cứu nước, bà con đã rất vui lòng góp gạo để nuôi ta, ai cũng đặt hy vọng vào ta sẽ giết được giặc, cứu đất nước. Đến một ngày, nhận được tin giặc đã đến chân núi Trâu, tình thế vô cùng nguy cấp, người dân ai cũng hoảng hốt, khiếp sợ. Hay thay vừa lúc đó sứ giả đã mang đến cho ta ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt, đã đầy đủ tư trang, ta liền vùng dậy vươn vai một cái trở thành một tráng sĩ, lúc đó mình ta cao hơn trượng rất oai phong và lẫm liệt. Ngắm con ngựa sắt rồi ta bước lên vỗ vào mông ngựa, con ngựa hí dài những tiếng vang dội khắp đất trời.

Mặc trên mình áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, ta nhảy lên ngựa, ngựa phun ra lửa rồi phi như bay đến nơi có giặc. Ta không chờ giặc tấn công mà đến đón đầu và đánh giết hết lớp giặc này đến lớp giặc khác, đi qua lớp nào là giặc nằm chết như ngả rạ. Đang chiến trận bỗng roi sắt của ta gãy, không còn vũ khí, ta nhìn xung quanh thấy có khóm tre bên đường liền nhổ cả cụm tre lên quật vào đám giặc. Lũ giặc trước sức mạnh của ta bị đánh cho tan tành, đám quân tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, ta đuổi theo đến tận chân núi Sóc nhưng vẫn có vài tên giặc trốn vào hẻm núi tìm đường trốn về nước. Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân vui sướng hân hoan, sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, ta một mình một ngựa đứng trên đỉnh núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt rồi cùng ngựa từ từ bay về trời. Vì nhớ đến công ơn của ta nên vua phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương và còn lập đền thờ của ta ngay tại quê nhà làng Gióng, mỗi năm cứ đến tháng tư cả làng lại ăn hội rất to.

Là người thực hiện sứ mệnh của Ngọc Hoàng, ta cảm thấy rất vui khi được nhìn con dân sống trong yên bình, hạnh phúc và ấm no. Chiến công này phần chính vẫn là nhờ vào lòng tin và sức mạnh đoàn kết của nhân dân.

Ta là Thánh Gióng nhờ có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược nên ta đã được vua phong ân Phù Đổng Thiên Vương và được dân làng lập đền thờ ở quê nhà. Hôm nay ta sẽ kể lại chiến tích đánh đuổi giặc Ân năm đó.

Năm đó vào đời Hùng Vương thứ sáu, Ngọc Hoàng cử ta xuống giúp dân đánh đuổi quân xâm lược nên đã cho ta đầu thai vào một gia đình ở làng Gióng, gia đình chỉ có hai vợ chồng ông lão vừa chăm chỉ làm ăn lại vừa phúc đức. Hai ông bà ao ước có đứa con nhưng mãi không có, Ngọc Hoàng mới ban phép màu tạo ra bàn chân to lạ thường, khi bà lão đi ra đồng nhìn thấy bàn chân rất to liền đặt bàn chân mình ướm vào, rồi khi về nhà bà liền có thai, 12 tháng sau thì hạ sinh ra ta. Hai ông bà rất mừng rỡ trước sự khôi ngô tuấn tú của ta, nhưng buồn thay vì sứ mệnh nên dù đã lên ba tuổi ta cũng không nói, không cười và không đi đứng gì, cứ đặt ở đâu thì ta nằm ở đấy. Đến một ngày trước sự xâm lược của giặc Ân, nhà vua lo lắng sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước, đây cũng là lúc ta phải thực hiện sứ mệnh của mình, khi nghe được tiếng rao ta liền cất tiếng nói, nói với mẹ rằng: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Khi gặp sứ giả ta liền nói với ông ta: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Ông sứ giả này nghe ta nói vậy kinh hãi hồi lâu nhưng rồi liền mừng rỡ và về tâu lại lời của ta cho vua nghe, vua nghe được tin liền truyền lệnh cho thợ ngày đêm làm thật nhanh những đồ mà ta đã yêu cầu.

Để chuẩn bị cho sứ mệnh đánh đuổi giặc sắp tới, ta bắt đầu lớn nhanh hơn, ăn mãi không no, cứ đem bao nhiêu đồ ăn ra cũng hết, vừa ăn vừa lớn đến nỗi áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Ta ăn nhiều tới nỗi hai ông bà lão có làm ra không đủ nuôi ta, phải nhờ cả bà con làng xóm, khi ấy vì sự nghiệp cứu nước, bà con đã rất vui lòng góp gạo để nuôi ta, ai cũng đặt hy vọng vào ta sẽ giết được giặc, cứu đất nước. Đến một ngày, nhận được tin giặc đã đến chân núi Trâu, tình thế vô cùng nguy cấp, người dân ai cũng hoảng hốt, khiếp sợ. Hay thay vừa lúc đó sứ giả đã mang đến cho ta ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt, đã đầy đủ tư trang, ta liền vùng dậy vươn vai một cái trở thành một tráng sĩ, lúc đó mình ta cao hơn trượng rất oai phong và lẫm liệt. Ngắm con ngựa sắt rồi ta bước lên vỗ vào mông ngựa, con ngựa hí dài những tiếng vang dội khắp đất trời.

Mặc trên mình áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, ta nhảy lên ngựa, ngựa phun ra lửa rồi phi như bay đến nơi có giặc. Ta không chờ giặc tấn công mà đến đón đầu và đánh giết hết lớp giặc này đến lớp giặc khác, đi qua lớp nào là giặc nằm chết như ngả rạ. Đang chiến trận bỗng roi sắt của ta gãy, không còn vũ khí, ta nhìn xung quanh thấy có khóm tre bên đường liền nhổ cả cụm tre lên quật vào đám giặc. Lũ giặc trước sức mạnh của ta bị đánh cho tan tành, đám quân tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, ta đuổi theo đến tận chân núi Sóc nhưng vẫn có vài tên giặc trốn vào hẻm núi tìm đường trốn về nước. Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân vui sướng hân hoan, sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, ta một mình một ngựa đứng trên đỉnh núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt rồi cùng ngựa từ từ bay về trời. Vì nhớ đến công ơn của ta nên vua phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương và còn lập đền thờ của ta ngay tại quê nhà làng Gióng, mỗi năm cứ đến tháng tư cả làng lại ăn hội rất to.

Là người thực hiện sứ mệnh của Ngọc Hoàng, ta cảm thấy rất vui khi được nhìn con dân sống trong yên bình, hạnh phúc và ấm no. Chiến công này phần chính vẫn là nhờ vào lòng tin và sức mạnh đoàn kết của nhân dân.

4 tháng 1 2021

Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ  kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!

        Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.

Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:

- Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.

Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:

- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!

         Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về  tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.

Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta  ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.

Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.

          Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.

Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.

Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.

15 tháng 9 2021

BN THAM KHẢO:

Từ khi sinh Gióng ra,tôi rất lấy làm lạ vì thằng bé lên ba vẫn chưa biết nói,cười hay đi.Suốt ngày Gióng chỉ nằm một chỗ,cho ăn thì ăn,cho uống thì uống chứ không chạy nhảy nô đùa như bạn bè đồng trang lứa.Tôi cũng lo lắm nhưng cũng chẳng biết làm thế nào.Năm ấy,giặc Ân xâm lược nước tôi.Chúng đi đến đâu là tàn phá đến đó.Đâu đâu cũng tràn ngập cảnh đau thương.Thấy tình thế đất nước ngày một tồi tệ,nhà vua đã cử sứ giả xuống các làng bản tìm người tài cứu nước.Khi sứ giả đi đến làng tôi rao,Gióng bỗng cất tiếng nói:"Mẹ ơi,mẹ gọi sứ giả vào đây cho con!".Nghe thấy thế,tôi vừa ngạc nhiên,vừa nơm nớp lo sợ nhưng vẫn làm theo lời con.Vừa thấy sứ giả,thằng bé đứng bật dậy,nói:"Ông về bảo nhà vua rèn cho tôi một con ngựa sắt,một cái roi sắt,một áo giáp sắt,tôi đánh đuổi giặc cho."

19 tháng 3 2022

refer

  Qua truyện Thánh Gióng, em hiểu rằng nhân dân Việt Nam luôn hiện hữu một lòng nồng nàn yêu nước. Tinh thần yêu nước ấy luôn thường trực trong tâm khảm mỗi người. Họ có thể quanh năm im lặng, cần cù làm ăn nhưng chỉ cần có giặc ngoại xâm sang xâm lược thì họ nhất định sẽ dũng cảm đứng lên đấu tranh để bảo vệ đất nước. Điều này được thể hiện rất cụ thể thông qua chi tiết Thánh Gióng 3 năm vẫn chưa biết nói biết cười cứ đặt đâu nằm đấy nhưng chỉ khi nghe sứ giả tìm người tài giúp nước, biết được đất nước đang nguy nam thì tiếng nói thốt lên đầu tiên chính là tiếng nói đòi đánh giặc. Một điều nữa, em hiểu được đó là nhân dân ta luôn đoàn kết để chống lại bất kì kẻ thù nào, bởi đoàn kết là sức mạnh, có được sức mạnh, sự đồng lòng nhất trí của toàn dân tộc, chúng ta nhất định giành chiến thắng. Điều này được thể hiện thông qua chi tiết dân làng cùng nhau góp gạo nuôi Gióng ở trong truyện. Em cảm thấy tự hào và biết ơn vô cùng về tình thần yêu nước của dân tộc Việt Nam ta khi có giặc ngoại xâm.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/qua-truyen-thanh-giong-em-co-suy-nghi-gi-ve-tinh-than-yeu-nuoc-cua-nhan-dan-ta-khi-dat-nuoc-co-ngoai-xam-a94896.html#ixzz7NyyLeJaX

7 tháng 2 2022

bạn kể mình lm những cái việc trong đấy là đc rồi.VD:Tôi ăn mấy cũng ko no, áo tôi vừa mặc xong liền căng đứt chỉ...

Chủ yếu bạn ngại ko dám kể chứ có khó gì đâu....

7 tháng 2 2022

uk ;-;..ý mik là 1  bài văn =v