Hãy kể sưu tầm và kể chuyện về nhà sư Vạn Hạnh (một vị thiền sư người Việt)
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
câu 2: 1.Trung thực: ko nói thêu dệt, ko nói lưỡi 2 chiều, ko dối trá, ngụy biện,lừa ng` trên gạt ng` dưới ,tuy nhiên có thể nói dối khi có lợi cho người nghe.
2. Siêng năng: người liêm khiết ko thể lười biếng, để đẩy hết công việc,trách nhiệm cho ng` khác...siêng năng học tập làm việc có ích.
3. Ko tham lam(thanh liêm):ko thấy lợi sáng mắt(ko ăn hối lộ)ko làm ảnh hưởng xấu đến những ng` khác...
4. Bác ái: yêu thương, quan tâm đến quyền lợi của người khác nhất là những người nghèo, ng` tàn tật, trẻ mồ cô, ng` già neo đơn...
5. Dũng cảm: thấy khó ko sợ, thấy bại ko nãn, dũng cảm tiến bước bất chấp trở ngại, bất chấp mọi sự công kích phá đám của kẻ xấu
6.Độc lập,tự chủ: ko đồng lõa với bọn ng` tham ô, ko đồng tình tìm cách ngăn chặn phá hủy mọi mưu tính gây hại của bọn ng` này đối với dân, với nước.
7. Trung, tín: đã hứa giữ lời, giữ uy tín ko làm mất lòng tin của ng` khác dành cho minh..
câu 3:
Câu ca dao danh ngôn tục ngữ nói về tính liêm khiết:
1.Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư .
2. Cây ngay bóng thẳng , cây cong bóng vẹo .
3. Cây ngay ko sợ chết đứng .
4 Đói cho sạch, rách cho thơm
Chớ có bờm xôm, để đời tiếng xấu
5. Khó mà biết lẽ biết lời
Biết ăn biết ở như người giàu sang.
6. Cười người chớ vội cười lâu
Cười người hôm trước hôm sau người cười.
7. Áo rách cốt cách người thương.
8. Ăn có mời ; làm có khiến.
9. Mặc đẹp chưa - hẳn đã là sang..!
Kém phẩm vô tâm, khạc nhổ càng.!
Tư cách trang đài, do biết nghĩ
Kín đáo, sạch sẽ "Tướng thật sang"
10 Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
11 Của thấy không xin
Của công giữ gìn
Của rơi không nhặn
câu 1:
tui thấy có một cô gái đi trước tui làm rớt cái xách tay ,tui nhặt nó lên và dĩ nhiên đưa lại cho cô ấy. cô gái ấy liền mỡ cái xách tay ra và xĩ vào mặt tui mà rằng còn một triệu đồng tiền mặt đâu đưa lại đây mau.,thế là bấm bụng tui móc trong túi ra một triệu đồng đưa cho cô ta. từ rày thề với lòng ko bao zờ zám liêm khiết nữa....
- "Nếu đây đúng là một chiếc tàu thì nhất định phải có máy móc làm nó chuyển động và người điều khiển chứ!"
- "Chắc là như vậy! [...] Nhưng tôi đứng trên hòn đảo di động này đã ba tiếng đồng hồ mà chẳng thấy một dấu hiệu nào của sự sống cả."
- "Chính chúng ta đã biết rõ hơn ai hết tốc độ con tàu này! Muốn đạt tốc độ đó cần có máy móc; muốn điều khiển máy móc, phải có thợ. Từ đó tôi kết luận rằng... chúng ta đã thoát chết!"
- "Thế là tính mạng chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của những người điều khiển con tàu này! Họ cho tàu lặn xuống là chúng tôi toi mạng ngay! Còn nếu họ không làm như vậy thì tôi chẳng nghi ngờ gì khả năng đặt quan hệ với họ. Nếu họ không chế tạo dưỡng khí bằng phương pháp hóa học thì thỉnh thoảng họ cũng phải cho tàu nổi lên mặt biển để dự trữ không khí mới. Như vậy, phải có một lỗ thủng nào đó để lấy không khí vào trong tàu."
C. Tuyến truyện về “tôi” và Tường kết hợp và lồng ghép với tuyến truyện về chàng thư sinh, cóc tía, người bạn xấu, nàng công chúa
Bạn tham khảo nhé
Hè vừa qua tôi được về thăm quê nội, điều làm tôi vô cùng bất ngờ và sung sướng đó là được ngồi cạnh một người lính mà trước đây chính là người lái xe trong đội xe được Phạm Tiến Duật miêu tả trong bài thơ: Tiểu đội xe không kính năm đó.
Người lính của tiểu đội xe không kính năm đó bây giò đã già, mái tóc đã điểm bạc, ông bùi ngủi kể cho tôi nghe những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến, về những kỉ niệm của tiểu đội xe không kính huyền thoại.
Thời điểm đó cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, những con đường huyết mạch luôn được bảo vệ chặt chẽ, bom đạn của kẻ thù cũng tập trung bắn phá ở những nơi đây. Ngày đó chú làm nhiệm vụ lái xe vận chuyển lương thực vũ khí cho tiền tuyến và đi qua con đường Trường Sơn lịch sử.
Với sự đáng phá dữ dội của giắc Mĩ, những chiếc xe ấy đã bị tàn phá, mất kính, mất đèn, thậm chí mất cả mui xe. Bom đạn ác liệt, ngồi trên chiếc xe không được bảo vệ nhưng lúc đó trong người những chiến sĩ chúng tôi chỉ có ý chí chiến đấu, nên vẫn ung dung, thản nhiên. Không có vật chắn, các chú càng dễ dàng nhìn mọi vật xung quanh mình, nhìn trời, nhìn sao, và thấy yêu quê hương hơn, có tinh thần chiến đấu hơn.
Lái xe không có kính nên bụi bám đầy người, mỗi khi dừng lại, đồng đội nhìn nhau thấy người nào cũng trắng xóa thì cứ cười ha ha với nhau. Đến giờ đi, các chú lại ngồi lên những chiếc xe đó. Bom đạn ngày đêm vẫn dội trên đầu, ngay sát chân, sống chết rất mong manh nhưng những người chiến sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, yêu đời, coi cái chết nhẹ nhàng, không có gì đáng sợ cả
Người chiến sĩ ấy đã kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó chú luôn được gặp những người bạn, những người đồng đội của mình. Có những người chỉ gặp một lần rỗi mãi mãi ra đi. Họ bắt tay nhau qua ô cửa kính để sưởi ấm tình đồng đội. Nhiều khi họ dùng bữa cơm cùng nhau bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát,đôi đũa dùng chung,quây quần bên. Người chiến sĩ lặng người đi khi nhắc đến những kỉ niệm nghĩa tình ấy. Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa,kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi qua. Không chỉ kể những chuyện về tiểu đội xe của mình, người chiến sĩ còn cho tôi thấy được sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong. Nhiệm vụ của các cô là luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt.
Tôi hỏi người chiến sĩ rằng, các chú đi trên những chiếc xe trong hoàn cảnh như vậy mà các chú cứ đi phăng phăng được sao? Người chiến sĩ ấy đã nói một câu làm tôi thật sự xúc động. Các chú chạy phăng phăng để dành lại độc lập, chạy về miền Nam ruột thịt đang cần các chú ở phía trước. Tôi thấy những người lính lái xe khi ấy thật dũng cảm, học đã sống và chiến đấu hết mình vì tổ quốc. Chính ý chí và tinh thần của họ đã góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
Đã đến lúc người chiến sĩ ấy phải xuống xe, tôi chia tay chú trong niềm nuối tiếc và xúc động. Tôi rất khâm phục những người lính lái xe khi ấy, tôi sẽ tỏ lòng biết ơn họ bằng cách học tập thật tốt, để góp phần xây dựng và bảo vệ nước nhà ngày càng giàu mạnh.
Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu cùa dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đả lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.
Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc - Nam
Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
- Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì "bom rơi đạn lạc" như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe vân tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc - Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị "bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước... Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào "châu chấu đá xe", Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không cỏ vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.
Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt cùa các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: "Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua dược thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ". Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt được thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.
Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ,
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khản. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, xiết chặt tình đồng đội.
Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.
Thời gian thấm thoát trôi đi, đã ba năm rồi, tôi vẫn còn nhớ. Hồi học lớp Hai, tôi và Quỳnh rủ nhau ra vườn hoa trong trường chơi vào giờ giải lao.
Buổi sáng hôm ấy là một buổi sáng mùa xuân, không khí ấm áp, chúng tôi tha hồ hít thở bầu không khí trong lành. Vườn trường có nhiều sắc hoa. Tôi thích nhất là cây hoa cúc vàng. Nó nhiều cánh, nhị ở giữa, cánh hoa mềm mại xếp đều vào nhau; hương hoa thơm thoang thoảng và trông thật dễ thương, sắc hoa màu vàng rực rỡ. Tôi nói:
- Quỳnh ơi, xem kìa, hoa cúc mới đẹp làm sao!
Quỳnh bĩu môi:
- Ờ đẹp thật! Nhưng làm sao đẹp bằng hoa hồng. Hoa hồng là bà chúa của các loài hoa.
Tôi và Quỳnh mải tranh cãi với nhau, ai cũng cho ý mình là đúng và có lí cả. Suốt thời gian đầu Quỳnh vẫn bảo vệ ý đúng của mình. Quỳnh giận tôi thật rồi! Từ góc vườn, bác bảo vệ lại gần chúng tôi:
- Này hai cháu, từ nãy đến giờ bác đã nghe hai cháu tranh cãi với nhau việc hoa nào đẹp hơn rồi. Bây giờ bác nói cho hai cháu nghe nhé: “Hoa nào cũng đẹp, mỗi hoa có một vẻ đẹp riêng. Cái chính là chúng ta phải biết chăm sóc cho hoa đẹp hơn, tươi hơn và đâm chồi để nở ra nhiều hoa khác”. Tôi và Quỳnh nghe bác nói mới hiểu ra. Lúc bấy giờ chúng tôi nhìn nhau với ánh mắt vui vẻ như ban đầu. Vườn hoa trước mắt chúng tôi lúc bấy giờ như đẹp hơn.
Bây giờ chúng tôi đã lớn. Ba năm qua, kỉ niệm thời thơ ấu vẫn đọng mãi trong tôi: Một tình bạn đẹp, một kỉ niệm khó quên.
đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê
TK:
Một câu chuyện liên quan đến tính tự chủ là:
Hoa và Lan là hai bạn thân chơi với nhau từ nhỏ. Một hôm, đang ở trong nhà, Hoa mới nghe tiếng gọi của Lan nên chạy ra. Chưa kịp hỏi có việc gì thì Hoa đã nghe những lời mắng thậm tệ của Lan. Hoa thực sự rất ngỡ ngàng và chưa biết lí do vì sao. Mẹ Hoa nghe Lan nói lời nặng nhẹ, cũng chạy ra và mắng lại Lan sao nói Hoa như vậy. Còn Hoa vẫn bình tĩnh, cản mẹ và bảo mẹ vào nhà để hỏi rõ ràng câu chuyện. Sau khi hạ hoả xong, Lan mới nói lại đầu đuôi câu chuyện cho Hoa, Hoa phì cười và nói Lan đã hiểu nhầm về cô ấy, Hoa đã giải thích và giúp Lan hiểu rõ ngọn ngành. Lan xin lỗi Hoa và mẹ Hoa.
Trong trường hợp này, Hoa là người tự chủ về suy nghĩ và hành động của mình, không vì những câu chửi mắng của bạn mà chửi lại bạn, Hoa còn bình tĩnh để Lan hạ giận sau đó kể lại câu chuyện rõ ràng để làm rõ mọi chuyện.
Có lẽ với đông đảo người đọc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không còn xa lạ. Ông là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế. Những cuốn sách của ông, những bài thuyết pháp của ông được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của Giải Nobel hòa bình. Tôi biết ông có phần muộn hơn, nhưng cũng trước Hoàng Anh Sướng đến cả hàng chục năm.
Dịp ấy đang độ xuân. Như mọi người dân Việt, tôi đưa vợ con đi lễ chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã từng đến thuyết pháp. Thế rồi, trong lúc chờ vợ hóa vàng, tôi dắt con gái đi dạo chơi vãn cảnh chùa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy trong cửa hàng bán Kinh Phật cùng sách Tử vi bói toán, có rất nhiều đĩa CD thuyết pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cả đĩa hình, đĩa tiếng, nhưng đều bán đồng loạt một giá như nhau, và bán rất rẻ, chỉ có hai ngàn đồng một đĩa. Số tiền ấy không đủ mua một gói kẹo lạc hay một mớ rau muống. Nhưng nhờ với giá rẻ như thế mà một em bé đánh giầy lang thang cơ nhỡ hay một bà hành khất cũng dễ dàng có được cả một buổi thuyết pháp của một vị Thiền sư lừng danh thế giới.
Tôi mua một vài đĩa về nhà nghe thử. Nghe cũng vì tò mò. Nhưng nghe rồi, tôi bắt đầu mê các bài thuyết pháp của ông. Tôi rất kinh ngạc khi trong các bài pháp thoại của vị Thiền sư nổi tiếng thế giới mà lại không thấy chùa, không thấy Kinh, không thấy cả Phật nữa, chỉ toàn những chuyện đời thường của mình, của gia đình mình, của những người thân. Nó vô cùng giản dị như muôn mặt của đời sống. Thiền sư hướng dẫn giúp ta làm sao có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề những lo toan, hờn trách. Làm thế nào để có thể đứng vững trước bao nhiêu bão táp, mưa giông, bon chen, đố kỵ. Rồi cách ứng xử để lập truyền thông với bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, để có tình yêu thương đích thực, để được hiểu và được thương. Đặc biệt, ta cần phải làm gì khi người thân mất?
Người mất thì họ đi về đâu? Tôi rất thích lối diễn giải của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông bắt đầu câu chuyện từ một giọt mưa. Giọt mưa rơi xuống phiến đá. Ta nhìn thấy rõ giọt nước ấy. Nó long lanh sáng. Rồi nó thẫm dần như một chấm nâu. Ta nhắp đi, ngoảnh lại, không còn thấy nó nữa. Lại nghĩ, giọt mưa đã chết. Nó đã biến khỏi mặt đất. Nhưng không! Giọt mưa không chết. Nó cũng không biến đi. Nó vẫn đang tồn tại. Nhưng tồn tại trong một hình dạng khác. Nó đã thành một đám mây che mát trên đầu ta. Rồi từ mây, nó hóa tiếp cơn mưa, tưới mát lành cả mặt đất.
Cũng tương tự như thế, khi bố mẹ ta chết, bố mẹ cũng có mất đâu. Bố mẹ vẫn tồn tại, nhưng tồn tại ở một dạng khác. Bố mẹ vẫn luôn ở trong ta, trong từng tế bào cơ thể ta. Không cần phải xét nghiệm ADN, ta chỉ đứng trước gương. Thấp thoáng sau gương mặt ta là gương mặt bố mẹ, gương mặt của ông bà, và xa hơn nữa là các cụ kỵ, tổ tiên ta. Tổ tiên vẫn luôn hiện hữu ở ngay trong ta. Vậy thì ta phải sống thế nào, tu thế nào để gương mặt ta luôn sáng đẹp. Gương mặt ta sáng đẹp, tâm hồn ta sáng đẹp, thì gương mặt bố mẹ, ông bà, tổ tiên cũng sáng đẹp.
Bàn được đến thế là sâu sắc lắm!
Tôi cũng rất ám ảnh bởi câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về một người lính Mỹ. Anh tham trận ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã giết một đứa trẻ con. Đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Vì thế, anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Đó là những người tốt. Chỉ những người tốt mới biết ân hận. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh - bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của Ngài.
Thiền sư bảo, dẫu sao anh cũng đã giết người. Bây giờ, anh có dằn vặt, ân hận hay đổi cả mạng sống của mình thì đứa trẻ ấy cũng không thể sống lại được nữa. Tội của anh rất nặng. Nhưng anh vẫn có thể thoát được nghiệp chướng. Đứa trẻ không sống lại được, nhưng vẫn còn rất nhiều những đứa trẻ khác đang nguy kịch. Chúng đang đói khát và tật bệnh. Chúng sẽ chết nếu như không được cứu. Vậy thì anh hãy cứu chúng đi. Anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết là anh đã giải được nghiệp rồi. Anh cứu được đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư..., anh sẽ thành vị Bồ Tát. Và như thế, ngay cả những kẻ tội đồ cũng có thể thành được Bồ Tát, nếu biết tu tập.
Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh. Đã khỏe mạnh trở về được với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không phải anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới.
Tôi tìm mua các cuốn sách về Phật, các bài Kinh, rồi các bài giảng của các Đại đức, Hòa thượng khác. Nhưng phải nói thật, khi đã nghe Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết pháp rồi thì rất khó nghe các vị sư khác. Nhiều khi, tôi còn thấy dị ứng. Có vị sư giảng Phật pháp mà mắt cứ long lên sòng sọc, giọng vỏng vót, gắt gỏng, đầy sân hận. Có vị vừa giảng vừa trêu ghẹo mấy nữ Phật tử ngồi dưới. Có vị lại còn tạo sự hấp dẫn bằng cách kể những câu chuyện tiếu lâm rất tục tĩu, bợm trợn, kể cả chuyện Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa. Giảng Phật pháp, hướng người ta đến với đạo Phật, lại mang chùa mang sư ra diễu thì ai còn tin Phật, tin sư nữa đây?
Tôi lại phải trở về với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lại sưu tầm các đĩa ghi hình những bài pháp thoại của ông. Rồi tôi lọ mọ chuyển các đĩa CD, VCD bài giảng của ông ra MP4, MP3. Tôi đưa vào các Ipod, Ipad rồi tặng bạn bè và người thân của mình. Nhà báo Hoàng Anh Sướng là người đầu tiên tôi tặng món quà quý đó. Tôi biết anh là nhà báo có tài. Anh cũng rất giỏi thuyết giảng. Nhiều bài viết, bài nói của Hoàng Anh Sướng về Trà đạo, về tâm linh, ngoại cảm rất hay, rất hấp dẫn. Bản thân tôi cũng đã viết bài giới thiệu tập sách “Bùa ngải xứ Mường” của anh. Tôi bảo Sướng: "Chú nghe đi. Trong này có hàng ngàn bài hát. Hàng chục cuốn tiểu thuyết đặc sắc của thế giới phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nhưng trước hết, chú hãy nghe phần của Thầy Nhất Hạnh. Nhiều lắm. Nghe các bài thuyết pháp trước rồi nghe các truyện dài của thầy sau".
Lúc bấy giờ, Hoàng Anh Sướng đang say mê nghiên cứu các nhà ngoại cảm. Anh lầm lụi vượt rừng, vượt núi cùng họ đi tìm mộ liệt sĩ, rồi nghiên cứu các cuộc gọi hồn. Trông anh lúc nào cũng tất tả, bận rộn. Người lúc nóng, lúc lạnh, lúc vui, lúc buồn. Có lúc cũng đau khổ vì sự hục hặc của các nhà ngoại cảm với nhau. Tôi hỏi : "Chú đã nghe chưa? Nghe Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp chưa?". "Em nghe rồi. Nhưng cứ nửa chừng lại bỏ. Ông cụ ề à quá. Cứ tháng Năm một câu, tháng Mười một câu. Oải vô cùng!".
Tôi biết mình thật vô duyên. Muốn hướng người thân đến với Phật pháp. Nhưng mặt mình trông cứ gian gian. Làm sao người đời tin được. Người nhẹ dạ còn chả tin thì làm sao thuyết phục được một cây bút sắc lẹm như Hoàng Anh Sướng!
Câu chuyện bỏ lửng đó. Tôi và Hoàng Anh Sướng vẫn gặp nhau thường xuyên nhưng không bàn đến chuyện ấy nữa. Anh cũng quẳng cái Ipod 160 GB tôi tặng ở xó xỉnh nào mất rồi. Tôi không hỏi mà anh cũng chẳng quan tâm.
Thế rồi mùa hè năm 2013, đột ngột anh khoe với tôi: "Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời em sang Mỹ ba tháng tham dự những khóa tu và buổi thuyết pháp của thầy dọc nước Mỹ”. “Thế thì chú đi ngay” - Tôi bảo Sướng. “Tuyệt lắm đấy. Bận gì cũng hãy bỏ hết. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Chú phải đi ngay!”.
Quả như sự tiên đoán của tôi. Chuyến đi ấy vô cùng thú vị. Cuộc gặp gỡ giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng với Thiền sư Thích Nhất Hạnh như có sự dẫn dắt, sắp đặt của Trời, Phật. Anh có rất nhiều tư liệu quý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh do tôi cung cấp trước đó, nhưng vì không chịu nghe nên đến khi tiếp xúc với Thiền sư tại Mỹ, anh vẫn là kẻ tay không. Anh hoàn toàn tinh khiết như một trang giấy trắng. Và rồi, suốt ba tháng theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh dọc nước Mỹ, anh đã tự khám phá tầm vóc lồng lộng của Thiền sư.
Anh kinh ngạc khi thấy người dân khắp nơi trên hành tinh đổ về nước Mỹ nghe Thiền sư thuyết giảng Phật pháp. Trong số hàng ngàn người nghe đó có những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà khoa học lỗi lạc từng được trao giải Nobel. Trình độ, địa vị xã hội và số phận của mỗi người cũng rất khác nhau nhưng họ đều sùng kính Thiền sư, coi Thiền sư như một vị Phật sống. Anh cũng ngạc nhiên khi biết mỗi giờ thuyết giảng của Thiền sư được trả rất nhiều tiền. Nhưng Thiền sư sống vô cùng đạm bạc. Tài sản và vật dụng của Thiền sư chẳng có gì đáng giá. Số tiền khổng lồ ấy, Thiền sư dùng để nuôi hàng ngàn đệ tử trong Tăng đoàn, rồi làm từ thiện cho những người bất hạnh ở khắp nơi trên thế giới.
Ở Việt Nam, những năm bao cấp, rất nhiều nghệ sĩ nghèo khổ đã nhận được sự giúp đỡ của ngài. Một trong số họ là thi sĩ Hoàng Cầm. Sau này, qua cuốn hồi ký của sư cô Chân Không, tôi mới biết được bí mật ấy. Hoàng Cầm nhận được tiền qua sư cô Chân Không gửi. Và ông cứ tưởng Chân Không là một nhà doanh nghiệp hay một tiểu thư khuê các, một mệnh phụ phu nhân giàu có và lãng mạn, rất yêu những bài thơ tình của ông. Ông hoàn toàn không biết đó là một Ni sư. Và tiền ông nhận là tiền của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Cái tài đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ông đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc sống của mọi tầng lớp người, trong đó, có những người Tây phương đã từng theo nhiều tôn giáo khác nhau. Cũng nhờ có ông mà đạo Phật ở phương Tây phát triển rất nhanh và mạnh, đặc biệt được giới trẻ và trí thức hâm mộ. Ông mở nhiều khóa tu tập riêng cho giới doanh nhân, giới bảo hộ môi trường, giới giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ. Ông cũng mở cả khóa tu cho giới diễn viên Hollywood, các nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, rồi những khóa tu cho cả cảnh sát, an ninh, và người coi tù. Người dự khóa tu không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.
Điều đáng kinh ngạc là những người tham gia khóa tu của Thiền sư, có người từng là linh mục, là mục sư, như mục sư Robert Schaibly ở Houston, Texas. Vị mục sư này đã xin thụ trì 5 giới, quy y Tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn nào giữa đức tin Cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó, ông còn đến Làng Mai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Pháp để tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức là người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này cũng đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật. Sáng chủ nhật ông giảng bài cho con chiên, chiều hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những con chiên ở trong nhà thờ…
Ai sinh ra cũng mong mình được hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên, trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đến hạnh phúc. Người dẫn cả tuyên ngôn của nước Mỹ, trong đó khẳng định, con người ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Trong số những quyền ấy, có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong tiêu chí của một Quốc gia mà chúng ta luôn vươn tới, cũng là “Độc lập” – “Tự do” và “Hạnh phúc”. Nhưng nói như một nhà thơ: “Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng – Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn không ra?”. Chúng ta đi tìm hạnh phúc, nhưng sao chỉ gặp những khổ đau. Có lẽ vì quan niệm “Hạnh phúc là đấu tranh” thì làm sao mà hết khổ đau được.
Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại phải trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Tại sao người khác cứ phải đau khổ thì mình mới hạnh phúc? Đó là câu hỏi quan trọng. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, trọn vẹn hơn vì không ai phải đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết.
Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong Kinh Niệm xứ hay Kinh Quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem tận gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được đau khổ, mới có được hạnh phúc.
Cũng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới thường dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy. Sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đó đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đã trở nên không còn phù hợp với thực tiễn. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của mình là duy nhất đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.
“Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ca ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, để thống nhất lòng người, ôm lấy nhau mà sống...”
Cái tài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông giảng Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật, chỉ thấy đời sống, thấy những chuyện nóng hổi của đất nước, của xã hội, của gia đình mình và của chính mình. Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin. Tin vào chính mình. Nghĩa là ta phải tự biến ta thành Phật, để tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, chúng ta đã thoát được khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của hạnh phúc. Ta bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc.