Đảng Cộng sản Đông Dương đã có những chủ trương và khẩu hiệu gì để đẩy phong trào cách mạng tiến tới?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Chủ trương:
+ Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật.
+ Ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
+ Phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước”.
- Khẩu hiệu:
+ Thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bầng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
+ Đưa ra khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng” và khẩu hiệu “ Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
TK:
Nhật phải đảo chính Pháp do:
- Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được giải phóng. Chính phủ Đờ-Gôn trở về Pa-ri.
- Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật khốn đốn trước các đòn tấn công dồn dập của quân Anh - Mĩ cả ở trên biển và trên bộ.
- Quân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ thời cơ để giành lại địa vị thống trị cũ.
⟹ Mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt.
⟹ Tình thế trên buộc Nhật phải đảo chính Pháp, nhằm độc chiếm Đông Dương.
Đáp án B
Giai đoạn 1930 – 1931, Đảng và nhân dân ta đấu tranh chống đế quốc và phong kiến chính vì thế khẩu hiệu mà đảng ta vận dụng là “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”. Từ đó, phong trào đấu tranh của nhân dân cũng thực hiện đúng khẩu hiệu này, đưa phong trào 1930 – 1931 phát triển đến đỉnh cao là ở Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Chú ý:
Phong trào 1930 – 1931 thực hiện đúng nhiệm vụ được đề ra trong Cương lĩnh chính trị, thể hiện tính triệt để của phong trào
Đáp án B
Giai đoạn 1930 – 1931, Đảng và nhân dân ta đấu tranh chống đế quốc và phong kiến chính vì thế khẩu hiệu mà đảng ta vận dụng là “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”. Từ đó, phong trào đấu tranh của nhân dân cũng thực hiện đúng khẩu hiệu này, đưa phong trào 1930 – 1931 phát triển đến đỉnh cao là ở Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Chú ý:
Phong trào 1930 – 1931 thực hiện đúng nhiệm vụ được đề ra trong Cương lĩnh chính trị, thể hiện tính triệt để của phong trào.
Đáp án B
Trong giai đoạn 1939 – 1945, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đưa lên hàng đầu. Để có thể tập hợp lực lượng toàn dân tộc, ngoài công nhân, nông dân, tiểu tư sản còn có một số trung nông, trung và tiểu địa chủ yếu nước, …. để đáp ứng yêu cầu đặt ra là cần đoàn kết tạo nên sức mạnh đánh Pháp => Đảng ta đã chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
Đáp án B
Trong giai đoạn 1939 – 1945, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đưa lên hàng đầu. Để có thể tập hợp lực lượng toàn dân tộc, ngoài công nhân, nông dân, tiểu tư sản còn có một số trung nông, trung và tiểu địa chủ yếu nước, …. để đáp ứng yêu cầu đặt ra là cần đoàn kết tạo nên sức mạnh đánh Pháp => Đảng ta đã chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
* Chủ trương:
Ngay khi tiếng sung đảo chính của Nhật vừa nổ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng. Hội nghị đã ra chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật, cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật, cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên thì ngày 15-4-1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì họp ở Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành lập Việt Nam giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị; đề ra nhiệm vụ cần kíp là phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị tổng khởi nghĩa cho kịp thời.
Ủy ban quân sự Bắc Kì được thành lập, có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp đõ toàn quốc về mặt quân sự. Tiếp đó, Khu giải phóng Việt Bắc ra đời (4-6-1945) bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận thuộc các tỉnh miền trung du (Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên). Ủy ban lâm thời khu giải phóng đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân.
* Phong trào quần chúng trong cả nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành thị thì nạn đói diễn ra nghiêm trọng hơn ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” được kịp thời đưa ra đã dấy lên phong trào đánh chiếm kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Một bầu không khí tiền khởi nghĩa lan tràn khắp cả nước, báo trước giờ hành động sắp tới.