K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 3 2016

Gợi ý phần thân bài

1. Đại ý: Đoạn thơ là một cái nhìn toàn cảnh về quê hương Kinh Bắc từ quá khứ đến hiện tại

2. Hai câu đầu:Cần khai thác:

- Giọng điệu câu thơ như một lời an ủi vỗ về, lời hứa hẹn trở về quê hương.

- Nhân vật “em” là một hình tượng nghệ thuật, là sự phân thân của tác giả để tạo ra đối thoại nhằm mục đích để tác giả bày tỏ nỗi buồn trước hoàn cảnh quê  hương bị giặc tàn phá.

- Hình ảnh sông Đuống vừa mang ý nghĩa tả thực chỉ con sông ở Kinh Bắc vừa mang ý nghĩa biểu trưng chỉ quê hương Kinh Bắc.

- Nghệ thuật phối thanh: Sử dụng chủ yếu thanh bằng, nhạc điệu nhẹ nhàng phù hợp để an ủi vỗ về nỗi buồn.

3.Hình ảnh quê hương trong quá khứ:

- Hình ảnh:cát trắng phẳng lì / lấp lánh ->miêu tả vẻ đẹp tươi tắn, rực rỡ của con sông

- Hình ảnh : trôi đi miêu tả dáng chảy êm đềm, gợi liên tưởng đến sự thanh bình yên ả của quê hương trong quá khứ.

- Các từ láy biêng biếc, xanh xanh cùng  với các từ liệt kê các cây hoa màu như ngô, khoai, mía, dâu gợi nên tính chất trù phú của vùng đất Kinh Bắc

=> Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào của tác giả về Kinh Bắc trong quá khứ. Đó là một vừng đất tươi đẹp, thanh bình và trù phú.

4. Kinh Bắc trong hiện tại: Câu thơ “Sông Đuống nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” đã sử dụng biện pháp nhân hóa, miêu tả con sông như một sinh thể sống động có hồn, có tâm trạng. Tư thế “Nằm nghiêng nghiêng” là một tư thế chứa đựng niềm lo âu, trăn trở của tác giả trước hiện tại của quê hương.

5. Tâm trạng tác giả: Tập trung thể hiện ở hai câu cuối.

- Thông qua việc sử dụng điệp câu hỏi tu từ, tác giả nhấn mạnh tâm trạng ngổn ngang : nhớ - tiếc - xót xa trước hoàn cảnh quê hương.

- Nghệ thuật so sánh “Xót xa như rụng bàn tay” nhằm cực tả nỗi đau, nỗi đau như cứa vào da thịt. Từ nỗi đau đó, ta cảm nhận quê hương là một phần trong đời sống của tác giả. Điều đó thể hiện tình cảm sâu sắc của Hoàng Cầm đối với quê hương.

 

Câu 1 : 

* Biện pháp tu từ:

- Biện pháp so sánh: “Sao xót xa như rụng bàn tay”: gợi nỗi đau máu thịt. Mỗi con người là một phần của Tổ quốc, coi Tổ quốc là máu thịt của mình. Đất nước bị giàu xéo thì con người cũng xót xa như chính bản thân mình phải chịu đau đớn.

- Câu hỏi tu từ: “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa như”… thể hiện sự nuối tiếc, đau đớn đến tột cùng.

* Cách sử dụng các từ láy: “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc”, “nghiêng nghiêng” góp phần gợi vẻ đẹp trù phú, tươi đẹp của quê hương bên dòng sông Đuống duyên dáng, thơ mộng.

Câu 2 : Thể thơ tự do giúp tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình một cách chân thành, xúc động mà không bị gò bó, cảnh đẹp quê hương cũng hiện lên tự nhiên, sống động.

11 tháng 3 2016

DÀN BÀI

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và quan trọng là giới thiệu đoạn thơ cần phân tích.

2. Đại ý: Đoạn thơ miêu tả hình ảnh người mẹ gánh chịu những hậu quả thảm khốc, nặng nề của chiến tranh

3. “Bên kia sông Đuống” là một trạng ngữ chỉ nơi chốn -> Chỉ quê hương Kinh Bắc. Đồng thời cụm từ này vừa cho ta thấy tâm thế ngóng vọng về quê hương của tác giả -> Tình yêu quê hương của tác giả. ( Lưu ý: cụm từ này lặp lại nhiều lần trong bài và thường xuất hiện ở đầu các đoạn thơ viết về Kinh Bắc )

4. Hình ảnh người mẹ: “Mẹ già ... sương sớm”

            - “Mẹ già nua ... hàng rong”: ngôn ngữ câu thơ giàu chất tạo hình và gợi cảm, giúp ta hình dung hình ảnh già nua, gầy guộc của người mẹ, đồng thời cảm nhận cái gian khổ vất vả cả một đời của mẹ. Thế nhưng tuổi già mẹ phải tư bương chải kiếm ăn “gánh hàng rong”.

            - Các số từ chỉ số ít : dăm, mấy, vài -> gánh hàng ít ỏi, gia tài của mẹ chỉ vỏn vẹn chừng đó thôi.

- Hình ảnh “đầm hoen sương sớm” là hình ảnh vừa tả thực, vừa đẫm chất thơ, có khả năng khơi gợi mạnh mẽ. Giấy hoen sương cũng chính là mẹ hoen sương!

=> Hình ảnh người mẹ vát vả, nghèo khổ đáng thương.

5. Hình ảnh và tội ác của bọn giặc:

            - “Chợt”: Sự xuất hiện bất ngờ , gây hoảng sợ cho mẹ

            - Hình ảnh bọn giặc: Lũ quỷ mắt xanh ...-. gớm ghiếc, đáng sợ.

            - Tội ác: các động từ khua, đạp, cướp bóc, cùng với nghệ thuật tương phản hình ảnh bọn giác với người mẹ, đoạn thơ cho ta nhận thức sâu sắc về tội ác dã man, vô nhân đạo của kẻ thù.

=> Tiếng nói căm thù và đau xót của tác giả.

6. Hậu quả ở phiên chợ nghèo (2 câu cuối )

            - Sử dụng thể thơ lục bát: chậm, trĩu nặng nỗi buồn -> tìm về cái hồn dân tộc rong thơ Hoàng Cầm.

            - Câu thơ có 4 sự kết thúc: Đời người (máu), đời lá (lác đác), một ngày (chiều), một năm (đông) => ấm hưởng buồn tẻ, khung cảnh tang thương.

            - Câu cuối: ngôn ngữ thơ vừa có tính cụ thể, vừa có khả năng khái quát “ máu loang - chiều mùa đông”

7. Đoạn thơ thể hiện niềm đau xót của tác giả  trước hình ảnh người mẹ phải gánh chụi những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đồng thời qua đó tác giả bày tỏ niềm căm thù giặc sâu sắc.

 

1 tháng 2 2016

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta. Sống Đuống là con sống nối liền sống Hồng và sống Lục Đầu tức sống Thái Bình. Bờ Nam sống là quê hương tác giả. Bờ Bắc là vùng tự do của kháng chiến.

Bài thơ khá dài, gồm hai phần lớn: Phần thứ nhất nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống đang bị giặc giày xéo; phần thứ hai kể chuyện bộ đội trở về cùng nhân dân đánh giặc giải phóng quê hương.

Bằng cách miêu tả cuộc sống thanh bình của quê hương giờ đây đang bị quân xâm lược hung tàn giày xéo tan hoang, nhà thơ bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim, sâu xa hơn là bày tỏ tình cảm yêu mến tha thiết đối với quê hương, đất nước và dân tộc. Mở đầu là vẻ đẹp thơ mộng của con sống Đuống với cái dáng nghiêng nghiêng mềm mại, với cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Đó là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Vậy mà giờ đây, tất cả đã bị xáo trộn phũ phàng. Đứng bên này sông (tức là bờ Bắc), tác giả nhớ tiếc vì không thể về bên kia được, bởi bên kia đã bị giặc chiếm rồi. Nỗi buồn thấm đẫm tâm trạng nhà thơ, người con đang xa quê hương. Nhưng cớ sao mà nhà thơ buồn đến mức xót xa như rụng bàn tay? Ở câu thơ thứ nhất: Em ơi buồn làm chi; nhân vật Em là ai? Có thể là người thương hoặc có khi là chính bản thân nhà thơ. Nó là âm thanh chủ đạo tạo ra âm hưởng tha thiết chung của toàn bài ; đau thương mà vẫn dịu nhẹ, thấm sâu. Kể cả hình ảnh so sánh khá táo bạo : xót xa như rụng bàn tay, nghe đau đớn thấu ruột gan nhưng vẫn là nỗi đau cố nén vào trong. Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là vùng đất có bề dày lịch sử rất đáng tự hào: có mộ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành; là địa bàn đánh giặc Ân của Thánh Gióng. Hai Bà Trưng cũng chiến đấu chống quân Nam Hán ở đấy. Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống ở sông Như Nguyệt tức sông cầu.
Chiến dịch xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cũng diễn ra trên mảnh đất này… Về văn học, truyện cổ Tấm Cám có nguồn gốc từ đó. Tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp nơi. Về kiến trúc và điêu khắc thì chùa Bút Tháp có pho tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay. Con người Kinh Bắc nổi tiếng là tài giỏi, thanh lịch : Trai Cầu vồng, Yên Thế; gái Nội Duệ, cầu Lim. Bắc Ninh là cái nôi của dân ca quan họ ngọt ngào làm mê đắm lòng người. Cuộc sống êm đềm đang diễn ra bình thường như quy luật ngày lên đêm xuống. Bên kia sống Đuống là quê anh, làng Lạc Thổ, làng Đông Hồ. Ai đặt cho làng cái tên hay như thế ? Lạc Thổ là đất vui, là cảnh Niết Bàn của Phật. Đông Hồ đem lại niềm vui tỉnh thần cho cả tỉnh, cả nước với nghề làm tranh Tết. Các nghệ nhân tài hoa xưa đã sáng tạo ra những bức tranh có nội dung vui tươi, màu sắc đậm đà, nét vẽ lại mộc mạc, chân chất. Tranh nào tranh nấy như những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp. Từ con người đến loài vật đều vui với xuân, đều nảy nở, sinh sôi. Gà đàn, Lợn ổ, Lợn âm dương, Đám cưới chuột, Hứng dừa, Thầy đồ Cóc… Từ làng Đông Hồ, tranh tỏa đi khắp nơi. Chợ Tết rực rỡ màu tranh xanh đỏ tím vàng loang loáng, lấp lánh trên nền giấy điệp (giấy quét một lớp bột vỏ sò gọi là điệp pha với keo), đưa tới mọi nhà niềm vui và niềm tin năm mới làm ăn phát đạt. Tranh Đông Hồ có vẻ đẹp dân dã, thanh tao mà ý nghĩa ấm áp biết bao nhiêu ! Bỗng dưng lũ xâm lăng ùn ùn kéo đến như đám cháy ngùn ngụt lừa hang tàn. Nhà thơ miêu tả chúng bằng những dòng thơ đẩy căm hận và khinh bỉ, ví chúng chẳng khác gì chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu; tàn phá đến kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang. Hỏi có cái gì còn nguyên vẹn khi ruộng khô, nhà cháy? Sông Đuống là quê hương anh, quê hương em, quê hương của chúng ta. Cuộc sống yên lành, tươi đẹp từ cỏ cây, sống nước đến tấm lòng nhân hậu của con người, vẻ đẹp phong phú ấy thể hiện ở lúa nếp thơm nồng, ở tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã… nhưng quân xâm lược dã man đã đốt phá tan hoang. Cảnh vật, con người của quê hương giờ đây tan tác, chia hai, không biết về đâu ? Nào chỉ có đau đớn về vật chất? Quân giặc đốt phá, giết chóc khiến quê hương tơi bời trong lửa đạn ; nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt. Còn điều sâu xa hơn là những bức tranh vẽ đàn lợn âm dương, đám cưới chuột kia chứa đựng ý nghĩa về nguồn gốc sự sống trong quan niệm bình dị mà sâu sắc của cha ông cũng bị giặc hủy diệt. Đó là hủy diệt sự sống. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa ?! Lời thơ, ý thơ đau đớn mà âm điệu đoạn thơ cũng xót xa kéo dài vô tận. Quê hương ta chứa đựng cuộc đời của ông bà, cha mẹ, chứa đựng cuộc đời ta. Nhưng nó lại ở bên kia sông Đuống, nằm trong vùng địch tạm chiếm nên trở thành xa xôi. Cả thời gian lẫn không gian đều mờ mịt khiến nỗi xót xa trở thành nỗi đau tột cùng : xót xa như rụng bàn tay. Giặc tràn tới, bây giờ không biết mọi cái đã về đâu ? Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng trời ơi vút lên giữa thinh không, vô vọng! Quê hương sông Đuống còn một nét văn hóa nữa cũng nổi tiếng cả nước như tranh làng Hồ ; đó là hội hè mùa xuân. Hội xuân có bao vẻ đẹp, vẻ hay. Hội hè là nơi mọi người vui chung niềm vui mùa màng tốt tươi năm trước, cầu mong năm nay càng tốt tưới hơn. Hội hè là nơi mọi người vui với sức mạnh, tài ba của Trai cầu vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, cầu Lim, vui câu hát điệu hò của liền anh liền chị, vui gặp gỡ gái trai… Núi Thiên Thái, chùa Bút Tháp và bao nhiêu nơi khác khắp miền quê sống Đuống mùa xuân đều có hội. Hội hè đã trở thành mơ ước của mọi lứa tuổi mỗi độ xuân về, đã thành nếp trong óc trong tim mọi người như một thứ mộng bình yên, trải mấy trăm năm. Nhưng nay dẫu đang là mùa xuân mà không ai còn lòng dạ nào mở hội. Có thể chuông chùa còn văng vẳng nhưng những người đi dự hội xuân năm ngoái lên núi, vào chùa, sang sống với con đò đưa các liền anh, liền chị… những cô môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu… bây giờ ở đái?! Nhà thơ băn khoăn, ao ước: Ai về bên kia sống Đuống, Cho ta gửi tấm the đen. Quê ta có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa. Ta gửi về cho mẹ, cho em tấm the đen để may áo tứ thân đi dự hội cho vời bớt lo toan suốt một năm, một đời. Nhưng bóng mẹ, bóng em nay ở đâu? Nỗi lo lắng, khắc khoải thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đoạn thơ nêu lên một nét sinh hoạt văn hóa lâu đời của quê hương Kinh Bắc là hội xuân. Bắt đầu bằng âm hưởng nhớ thương da diết với ai về và cho ta – những mô típ quen thuộc trong ca dao, dân ca; cuối cùng là: Gửi về may áo cho ai cũng vẫn bằng giọng điệu thân thương. Tội nghiệp thay Tấm the đen không người nhận, phơ phất giữa cõi trống không, chẳng biết về đâu? Một biểu hiện khác nữa của cuộc sống văn hóa ở quê hương nhà thơ là những cảnh sinh hoạt dân dã với những con người quen thuộc: Những cô hàng xén răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng, những phiên chợ Hồ, chợ Sui người đua chen, Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối, Những nàng dệt sợi, Đi bán lụa màu, Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh, Huê cầu… Làm ăn vất vả, tất bật, hay lam hay làm… đều là những vẻ đẹp có từ thuở xưa. Ông cha truyền lại cho con cháu những nghề tinh khéo, truyền lại luôn cả cái phong tục mắc cửi giăng tơ ngang đường, ai đi qua phải giải cho được câu đố hay câu hát mới được qua, không thì chỉ tơ không buộc mà cứ vương. Truyền cái nghề pha màu chọn nắng, chiều người mà nhuộm cho vừa mắt vừa lòng các cô, các chị. Thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê cầu đi đâu cũng để lại những tấm áo, những thắt lưng, những chéo yếm bền màu, đẹp sắc và để luôn lại những nỗi nhớ niềm thương: Ai về Đồng Tỉnh, Huê cầu, Để thương để nhớ để sầu cho ai ?! Có ai về bên kia sống Đuống không em? Còn chăng những chị, những em tuy quanh năm phải tảo tần phụng dưỡng mẹ cha, lo cho chồng con mà vẫn góp phần làm cho cuộc đời tươi sen và cười nắng. Đẹp và duyên biết chừng nào! Thế mà giờ đây, những người chị, người em ấy của quê hương đã tan tác đi đâu, về đâu ? Âm điệu đoạn thơ mỗi lúc một nghẹn ngào, chới với. Ba đoạn thơ cùng thể hiện một nỗi đau xót chung trước cuộc sống của quê hương đang bị lũ giặc hung ác giày xéo tan tành. Bên kia sống Đuống, bên này sống Đuống, vốn hai bờ, một sông nay chỉ còn một bờ, một nửa. Một nửa sống, một nửa con người! Đau xót như chết nửa con người chứ không phải chỉ như rụng bàn tay, Những ai có quê hương, làng mạc bị giặc chiếm đóng mà không thể ghé về thăm được, đứng bên này sông nhìn qua vùng giặc tạm chiếm, đều không khỏi xót xa, đau đớn và căm giận lũ cướp nước bạo tàn, đồng thời thông cảm với tâm trạng nhà thơ. Bao nhiêu thiết tha, trìu mến trong những chữ quê hương ta, ai về, cho ta gửi tấm the đen, gửi về may áo cho ai, ai về… có nhớ… Tưởng như ai về là về giùm cho ta, mang hộ tấm lòng da diết nhớ của ta cùng về. Ba đoạn thơ không chỉ là nỗi đau quặn thắt riêng cho một người mà còn là nỗi đau chung cho cả quê hương phía bên kia sông Đuống với chiều sâu lịch sử mấy nghìn năm, với truyền thống văn hóa vật chất, tinh thần tiếng tăm lừng lẫy, nay đang bị giặc giày xéo, hủy diệt. Tranh Đông Hồ không chỉ đem lại vẻ vang cho riêng Đông Hồ mà cho cả đất Kinh Bắc tài ba, thanh lịch từ giọng hát đến cái hoa tay… Bao nhiêu tên đất, tên chợ, tên núi, tên chùa, tên nghề, tên thợ… đều gợi lên một bức tranh thu nhỏ của đời sống phong phú và đẹp đẽ của cả một địa phường. Đó là tình cảm thiết tha của em, của anh, của chúng ta đối với quê hương. Các đoạn thơ trên còn có một lớp nghĩa thứ ba: đó là nỗi đau chung cho cả đất nước, dân tộc mà quê hương của tác giả là tiêu biểu. Trước hết, về mặt truyền thống văn hóa nghệ thuật và truyền thống trăm nghề sinh nhai đáp ứng nhụ cầu đời sống mọi người. Tranh Đông Hồ không còn là của riêng đất Kinh Bắc. Chùa Bút Tháp với tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay cũng là di sản và niềm tự hào của cả dân tộc. Hội hè thấp thoáng mộng bình yên cũng là mộng bình yên của cả dân tộc. Thậm chí, những nàng môi cắn chỉ quết trầu, những em sột soạt quần nâu, từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng… đều là những hình ảnh gợi nhớ không phải một địa phương mà cả nước một thời. Tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ khiến cho người đọc rưng rưng xúc động. Tác giả nhớ tiếc, xót xa không chỉ cho quê hương mình mà cho cả dân tộc và đất nước. Quân xâm lược dã man đã giày xéo lên những điều thiêng liêng nhất đối với tâm hồn ta. Cảm xúc đau thương kéo dài trong âm hưởng của những câu hỏi đi đâu, về đâu khắc khoải: Trên kia là quê hương dưới dạng văn hóa, còn đây là quê hương ở cảnh đời thường. Đời thường ấy cô đọng lại trong hình ảnh mẹ già với gánh hàng rong trên vai. Đời thường ấy nghèo khổ, cực nhọc vô vàn nhưng chính cái cực nhọc vô vàn ấy của mẹ ta đã nuôi chồng ăn học, nuôi con khôn lớn nên người; nuôi sống cả một dân tộc trải mấy nghìn năm đề xây dựng nên non sống, đất nước này. Cuộc sống lao động cần cù, thầm lặng ấy đến nay hãy còn đè nặng trên tấm lưng còm cõi của mẹ ta. Ôi, gánh hàng rong có nhiều nhặn gì đâu: Dăm miếng cau khô, Mấy lọ phẩm hồng, Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm và mấy cây kim, cuộn chỉ… Tiền lãi cũng chỉ nhỏ nhoi, ít ỏi như đồng kẽm, đồng xu. Ngày ngày, mẹ ta lại gánh hàng rong lên vai, bước cao, bước thấp trên đường trơn mưa lạnh. Chưa bán được đồng nào, bụng đói, dạ sầu. Mái đầu đã bạc nay càng bạc phơ. Vậy mà lũ giặc cũng chẳng buông tha. Chúng kéo đến cướp bóc, đập phá, bắn giết… Cuộc sống của mẹ và của bao người như mẹ rơi rụng như lá đa lác đác trước lều mùa đông. Có con cò trắng bay vùn vụt, Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Nó làm bạn với mẹ ta chăng? Nó là hóa thân của mẹ ta chăng? Con cò cũng hoảng hốt không biết về đâu. Mẹ ta đang bấm chân trên đường trơn mưa lạnh cũng không biết về đâu. Con cò ấy với mẹ ta bao đời nay đã là hai hình ảnh gần gũi, sóng đôi. Thân phận người phụ nữ xưa nay là vậy, giống như: Con cò lặn lội bờ sống, Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non… Suốt đời chỉ lo toan làm lụng và chịu đựng đau khổ. Mẹ già còm cõi khốn khó suốt một đời, nay gặp cảnh giặc giã lại càng thêm khốn khó. Cái gánh nặng trên vai mẹ kia chính là cái gánh giang sơn nhà chồng, là gánh nước non của muôn kiếp mẹ già! Đoạn thơ viết theo lối phá thể, năm ba câu ngắn loang loáng, vun vút rồi bất chợt buông xuống một câu lục bát chảy dài như tiếng thở than, như dòng nước mắt không gì ngăn nổi: Xì xồ cướp bóc, Tan phiên chợ nghèo, Lá đa lác đác trước lều, Vài ba vết máu loang chiều mùa đông, Chưa bán được một đồng, Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong… Mẹ ta lòng đói dạ sầu, Đường trơn mưa lánh mái đầu bạc phơ. Tiếp theo, nhà thơ miêu tả một cảnh đời thường khác: hình ảnh của đàn con thơ dại. Nghĩ về bên kia sống Đuống, lòng, ta quặn đau vì mẹ già khốn khổ và xót xa cho các con ta đang tranh nhau miếng cơm độn sắn khô; nghe tiếng súng nổ thì vội líu ríu chui gầm giường tránh đạn. Ú ớ giật mình vì Bóng giặc giày vò những nét môi xinh ngay cả trong giấc ngủ. Tội ác của giặc quả là trời không dung, đất không tha! Trên quê hương bị giặc chiếm, mẹ già nào mà không phải là mẹ già ta? Em nào, con nào mà không phải là em ta, con ta? Đạo lí làm người của dân tộc Việt Nam là vậy. Câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng đã thấm sâu vào cốt tủy của người dân đất Việt từ thuở xa xưa. Hai câu thơ : Đã có đất này chép tội, Chúng ta không biết nguôi hờn phảng phất lời kết tội của Đại cáo bình Ngô – áng thiên cổ hùng văn của ông cha ta thuở trước. 

 

Bài thơ Bên kia sông Đuống được phổ biến nhanh chóng, rộng rãi trong thời kì chống Pháp. Cái độc đáo của nó chính là giọng điệu nghĩa tình thắm thiết thấm sâu vào lòng người. Tuy nói về một địa phương nhưng sắc thái cảnh vật, con người, văn hóa, đạo đức đều là của chung cả nước, miền nào có giặc mà không phải chịu những tình cảnh đau thương như ở bài thơ này. Huống chi bài thơ đã vẽ ra cái thế bên này và bên kia sống, tức cái thế con người chỉ sống có một nửa, còn nửa kia là mất mát, tan tác, căm hờn. Trước mắt chỉ biết cắn răng chịu đựng chứ chưa hành động được. Nhưng đau thương đã tới độ nhức nhối như thế này, ân tình sâu nặng như thế này thì khi có thời cơ là đánh giặc đến cùng. Tính cách của con người Việt Nam ta vốn hiền lành hết mực nhưng cũng biết căm thù sục sôi và chiến đấu quên mình. Bên kia sống Đuống là một bài thơ hay, có sức sống lâu dài, khẳng định tài năng và tên tuổi Hoàng cầm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

 

1 tháng 2 2016

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông .Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt .

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất .

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội .

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch

21 tháng 11 2019

từ ghép : in đậm 

từ láy : gạch chân 

từ đơn : in nghiêng

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

20 tháng 12 2019

Chọn đáp án: B

22 tháng 9 2021

Tham khảo:

- Dấu ngoặc kép dùng để đánh dấu từ ngữ mang nghĩa nhấn mạnh hình ảnh cầu Long Biên.

- Dấu ngoặc kép ở đây dùng để đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa mỉa mai, châm biếm

- Dấu ngoặc kép để đánh dấu tên tác phẩm kịch.



 

22 tháng 9 2021

1. Đánh dấu từ được dùng với nghĩa đặc biệt

2.  Dùng để trích dẫn tên tác phẩm

3. Đánh dấu từ ngữ được dùng với ý nghĩa đặc biệt.