Phân tích đoạn thơ sau:
“Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
...
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông “
( Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm )
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta. Sống Đuống là con sống nối liền sống Hồng và sống Lục Đầu tức sống Thái Bình. Bờ Nam sống là quê hương tác giả. Bờ Bắc là vùng tự do của kháng chiến.
Bài thơ khá dài, gồm hai phần lớn: Phần thứ nhất nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống đang bị giặc giày xéo; phần thứ hai kể chuyện bộ đội trở về cùng nhân dân đánh giặc giải phóng quê hương.
Bằng cách miêu tả cuộc sống thanh bình của quê hương giờ đây đang bị quân xâm lược hung tàn giày xéo tan hoang, nhà thơ bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim, sâu xa hơn là bày tỏ tình cảm yêu mến tha thiết đối với quê hương, đất nước và dân tộc. Mở đầu là vẻ đẹp thơ mộng của con sống Đuống với cái dáng nghiêng nghiêng mềm mại, với cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Đó là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Vậy mà giờ đây, tất cả đã bị xáo trộn phũ phàng. Đứng bên này sông (tức là bờ Bắc), tác giả nhớ tiếc vì không thể về bên kia được, bởi bên kia đã bị giặc chiếm rồi. Nỗi buồn thấm đẫm tâm trạng nhà thơ, người con đang xa quê hương. Nhưng cớ sao mà nhà thơ buồn đến mức xót xa như rụng bàn tay? Ở câu thơ thứ nhất: Em ơi buồn làm chi; nhân vật Em là ai? Có thể là người thương hoặc có khi là chính bản thân nhà thơ. Nó là âm thanh chủ đạo tạo ra âm hưởng tha thiết chung của toàn bài ; đau thương mà vẫn dịu nhẹ, thấm sâu. Kể cả hình ảnh so sánh khá táo bạo : xót xa như rụng bàn tay, nghe đau đớn thấu ruột gan nhưng vẫn là nỗi đau cố nén vào trong. Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là vùng đất có bề dày lịch sử rất đáng tự hào: có mộ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành; là địa bàn đánh giặc Ân của Thánh Gióng. Hai Bà Trưng cũng chiến đấu chống quân Nam Hán ở đấy. Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống ở sông Như Nguyệt tức sông cầu.Bài thơ Bên kia sông Đuống được phổ biến nhanh chóng, rộng rãi trong thời kì chống Pháp. Cái độc đáo của nó chính là giọng điệu nghĩa tình thắm thiết thấm sâu vào lòng người. Tuy nói về một địa phương nhưng sắc thái cảnh vật, con người, văn hóa, đạo đức đều là của chung cả nước, miền nào có giặc mà không phải chịu những tình cảnh đau thương như ở bài thơ này. Huống chi bài thơ đã vẽ ra cái thế bên này và bên kia sống, tức cái thế con người chỉ sống có một nửa, còn nửa kia là mất mát, tan tác, căm hờn. Trước mắt chỉ biết cắn răng chịu đựng chứ chưa hành động được. Nhưng đau thương đã tới độ nhức nhối như thế này, ân tình sâu nặng như thế này thì khi có thời cơ là đánh giặc đến cùng. Tính cách của con người Việt Nam ta vốn hiền lành hết mực nhưng cũng biết căm thù sục sôi và chiến đấu quên mình. Bên kia sống Đuống là một bài thơ hay, có sức sống lâu dài, khẳng định tài năng và tên tuổi Hoàng cầm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.
Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông .Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt .
Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất .
Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.
Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.
Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.
Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu
Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.
Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn
Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội .
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch
Gợi ý phần thân bài
1. Đại ý: Đoạn thơ là một cái nhìn toàn cảnh về quê hương Kinh Bắc từ quá khứ đến hiện tại
2. Hai câu đầu:Cần khai thác:
- Giọng điệu câu thơ như một lời an ủi vỗ về, lời hứa hẹn trở về quê hương.
- Nhân vật “em” là một hình tượng nghệ thuật, là sự phân thân của tác giả để tạo ra đối thoại nhằm mục đích để tác giả bày tỏ nỗi buồn trước hoàn cảnh quê hương bị giặc tàn phá.
- Hình ảnh sông Đuống vừa mang ý nghĩa tả thực chỉ con sông ở Kinh Bắc vừa mang ý nghĩa biểu trưng chỉ quê hương Kinh Bắc.
- Nghệ thuật phối thanh: Sử dụng chủ yếu thanh bằng, nhạc điệu nhẹ nhàng phù hợp để an ủi vỗ về nỗi buồn.
3.Hình ảnh quê hương trong quá khứ:
- Hình ảnh:cát trắng phẳng lì / lấp lánh ->miêu tả vẻ đẹp tươi tắn, rực rỡ của con sông
- Hình ảnh : trôi đi miêu tả dáng chảy êm đềm, gợi liên tưởng đến sự thanh bình yên ả của quê hương trong quá khứ.
- Các từ láy biêng biếc, xanh xanh cùng với các từ liệt kê các cây hoa màu như ngô, khoai, mía, dâu gợi nên tính chất trù phú của vùng đất Kinh Bắc
=> Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào của tác giả về Kinh Bắc trong quá khứ. Đó là một vừng đất tươi đẹp, thanh bình và trù phú.
4. Kinh Bắc trong hiện tại: Câu thơ “Sông Đuống nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” đã sử dụng biện pháp nhân hóa, miêu tả con sông như một sinh thể sống động có hồn, có tâm trạng. Tư thế “Nằm nghiêng nghiêng” là một tư thế chứa đựng niềm lo âu, trăn trở của tác giả trước hiện tại của quê hương.
5. Tâm trạng tác giả: Tập trung thể hiện ở hai câu cuối.
- Thông qua việc sử dụng điệp câu hỏi tu từ, tác giả nhấn mạnh tâm trạng ngổn ngang : nhớ - tiếc - xót xa trước hoàn cảnh quê hương.
- Nghệ thuật so sánh “Xót xa như rụng bàn tay” nhằm cực tả nỗi đau, nỗi đau như cứa vào da thịt. Từ nỗi đau đó, ta cảm nhận quê hương là một phần trong đời sống của tác giả. Điều đó thể hiện tình cảm sâu sắc của Hoàng Cầm đối với quê hương.
Câu 5:
-->Miêu tả, tự sự, biểu cảm.
Câu 6:
--> khủng khiếp, ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng ta khô, nhà ta cháy, chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu.
Câu 7:
---> Niềm tự hào về truyền thống văn hóa và tình yêu thiết tha với quê hương.
- Nỗi đau xót khi quê hương bị giặc xâm chiếm.
- Lòng căm thù quân xâm lược.
Câu 8:
-->Tham khảo để làm rõ các nội dung này nha:
- Tình yêu quê hương của thanh niên hiện nay phải được thể hiện ở sự cố gắng gìn giữ những giá trị văn hóa, tinh thần của quê hương; học tập và lao động, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
- Phê phán những biểu hiện của thái độ ích kỉ, bàng quan trước những vấn đề của quê hương; những biểu hiện của tình yêu quê hương chưa đúng đắn.
Những từ ngữ chỉ nét văn hóa truyền thống của dân tộc là : Tranh Đông Hồ ; Mẹ con đàn lợn âm dương ; Đám cưới chuột ; tấm the đen ;
hội hè ; những nàng môi cắn chỉ quết trầu ; quần nâu; răng đen; giăng tơ ; dệt sợi ; lụa màu; nhuộm ; Đồng Tỉnh , Huê Cầu.
DÀN BÀI
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và quan trọng là giới thiệu đoạn thơ cần phân tích.
2. Đại ý: Đoạn thơ miêu tả hình ảnh người mẹ gánh chịu những hậu quả thảm khốc, nặng nề của chiến tranh
3. “Bên kia sông Đuống” là một trạng ngữ chỉ nơi chốn -> Chỉ quê hương Kinh Bắc. Đồng thời cụm từ này vừa cho ta thấy tâm thế ngóng vọng về quê hương của tác giả -> Tình yêu quê hương của tác giả. ( Lưu ý: cụm từ này lặp lại nhiều lần trong bài và thường xuất hiện ở đầu các đoạn thơ viết về Kinh Bắc )
4. Hình ảnh người mẹ: “Mẹ già ... sương sớm”
- “Mẹ già nua ... hàng rong”: ngôn ngữ câu thơ giàu chất tạo hình và gợi cảm, giúp ta hình dung hình ảnh già nua, gầy guộc của người mẹ, đồng thời cảm nhận cái gian khổ vất vả cả một đời của mẹ. Thế nhưng tuổi già mẹ phải tư bương chải kiếm ăn “gánh hàng rong”.
- Các số từ chỉ số ít : dăm, mấy, vài -> gánh hàng ít ỏi, gia tài của mẹ chỉ vỏn vẹn chừng đó thôi.
- Hình ảnh “đầm hoen sương sớm” là hình ảnh vừa tả thực, vừa đẫm chất thơ, có khả năng khơi gợi mạnh mẽ. Giấy hoen sương cũng chính là mẹ hoen sương!
=> Hình ảnh người mẹ vát vả, nghèo khổ đáng thương.
5. Hình ảnh và tội ác của bọn giặc:
- “Chợt”: Sự xuất hiện bất ngờ , gây hoảng sợ cho mẹ
- Hình ảnh bọn giặc: Lũ quỷ mắt xanh ...-. gớm ghiếc, đáng sợ.
- Tội ác: các động từ khua, đạp, cướp bóc, cùng với nghệ thuật tương phản hình ảnh bọn giác với người mẹ, đoạn thơ cho ta nhận thức sâu sắc về tội ác dã man, vô nhân đạo của kẻ thù.
=> Tiếng nói căm thù và đau xót của tác giả.
6. Hậu quả ở phiên chợ nghèo (2 câu cuối )
- Sử dụng thể thơ lục bát: chậm, trĩu nặng nỗi buồn -> tìm về cái hồn dân tộc rong thơ Hoàng Cầm.
- Câu thơ có 4 sự kết thúc: Đời người (máu), đời lá (lác đác), một ngày (chiều), một năm (đông) => ấm hưởng buồn tẻ, khung cảnh tang thương.
- Câu cuối: ngôn ngữ thơ vừa có tính cụ thể, vừa có khả năng khái quát “ máu loang - chiều mùa đông”
7. Đoạn thơ thể hiện niềm đau xót của tác giả trước hình ảnh người mẹ phải gánh chụi những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đồng thời qua đó tác giả bày tỏ niềm căm thù giặc sâu sắc.