Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 2 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
NHỚ RỪNG
Thế Lữ
I. TÌM HIỂU CHUNG
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Khổ 1 và khổ 4: Khối căm hờn và niềm uất hận.
Hình tượng con hổ và tâm trạng chán ghét thực tại tầm thường, tù túng được biểu hiện qua cảnh con hổ ở vườn bách thú với tâm trạng của chúa sơn lâm bị nhốt trong cũi sắt.
a. Khối căm hờn (khổ 1)
- “Khối căm hờn”: nỗi căm hờn bị kết đọng lại, ứ lại thành khối, không tan. Biện pháp hoán dụ đã khiến nỗi căm hờn vốn vô hình trở nên hữu hình, tích tụ và đóng lại như thành hình thành khối. Vết thương lòng, niềm căm hờn của con hổ cứ đầy lên, trào lên, nhức nhối không tan.
- “Gậm”: ngậm khối căm hờn trong cay đắng và khối căm hờn ấy nó gặm nhấm làm nhói đau tâm can của hổ. “Gậm” cũng thể hiện sự âm thầm mà dữ dội: con hổ không cam chịu thực tại tầm thường mà đang tích tự năng lượng, sức mạnh để nghiền nát khối căm hờn.
=> Câu thơ mở đầu với 6/8 chữ là thanh trắc đã gợi tả được nỗi căm hờn đến nhức nhối của con hổ. Sức nặng của câu thơ rơi vào chữ “căm hờn”, diễn tả nỗi đau đớn, căm hờn đến u uất của con hổ khi bị nhốt ở vườn bách thú
- Hổ đau đớn vì:
+ Cảnh ngộ (tù hãm): Nhục nhằn tù hãm, mất tự do. Cảnh ngộ “nằm dài” gợi ra sự ngao ngán, bất lực của con hổ.
+ Thời gian sống trong tù ngục (tù đọng): vô định (ngày tháng dần qua), bất lực, chỉ biết “Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”.
+ Không gian sống (tù túng): Cũi sắt, chật hẹp, tù túng.
+ Bị biến thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi của lũ người nhỏ bé mà ngạo mạn. Con hổ cảm thấy nhục nhã.
+ Bị hạ bệ, bị xếp ngang hàng cùng bọn gấu dở hơi, cặp báo chuồng bên vô tư lự. Phép nhân hóa khiến có câu thơ mang tính hình tượng sâu sắc.
=> Tâm trạng của con hổ: Vô cùng phẫn uất và ngao ngán, chán chường. Nhưng không có cách nào thoát khỏi hoàn cảnh ấy nên hổ ta đành bất lực (nằm dài trông ngày tháng dần qua). Tâm trạng này cũng thật giống với tâm trạng của những người dân VN mất nước thời bấy giờ. Nhưng nhân dân ta, những người VN yêu nước thì thể hiện rõ thái độ dứt khoát không bắt tay với giặc, không chấp nhận thực tại tầm thường, bất hợp tác, không chịu làm nô lệ nhưng vẫn chịu thân phận, xếp ngang hàng với những kẻ đi làm tay sai cho giặc, cho bọn bợ đỡ chính quyền thực dân để cầu thân lập danh và được hưởng vinh hoa. Như thế, niềm uất hận của con hổ cũng chính là cảnh sống tối tăm, chịu thân phận nô lệ của những người dân VN thời đó.
b. Niềm uất hận (khổ 4)
- Chính vì chán chường, xót xa do “sa cơ” nên “bị nhục nhằn tù hãm”, con hổ có cái nhìn không chỉ chán ghét mà còn khinh bỉ, tỏ ra uất hận với những sự vật tầm thường xung quanh mình.
- “Niềm uất hận ngàn thâu”: uất hận triền miên, không tài nào giải tỏa được.
- Vì: Khung cảnh nơi con hổ bị nhốt tầm thường, giả dối.
+ Đơn điệu, buồn tẻ. (“Không đời nào thay đổi”)
+ Tỉa tót, giả tạo (hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng)
+ Học đòi, bắt chước, đểu giả (“dải nước đen”, “mô gò thấp kém”, “vừng lá hiền lành không bí hiểm”,…)
=> Cảnh đủ đầy, có xuất hiện tất cả nhưng nhạt nhẽo, không có linh hồn.
=> Cách nói giễu nhại, thủ pháp liệt kê liên tiếp, cách ngắt nhịp ngắn, nhanh, dồn dập ở hai câu đầu và những câu thơ tiếp theo đọc liền như kéo dài ra thể hiện thái độ coi thường, khinh miệt, chán chường của con hổ. Đặc biệt, nhịp thơ được ngắt linh hoạt: 2/2/2/2 (Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng), 5/3 (Dải nước đen giả suối/ chẳng thông dòng), 3/5 (Len dưới nách/ những mô gò thấp kém). Cách ngắt nhịp có sự phóng túng này đã diễn tả tâm trạng bức bối, bị bó buộc và như bày tỏ niềm khát vọng được tháo cũi sổ lồng, được phá tung mọi xiềng xích kìm kẹp của con hổ.
=> Cảnh vườn bách thú tầm thường giả dối và tù túng dưới con mắt của chúa sơn lâm thực chất là một cách nói ẩn dụ về thực tại xã hội đương thời qua sự cảm nhận của một hồn thơ lãng mạn. Họ chán ghét, khinh miệt cái xã hội tầm thường, giả dối, tù túng. Tâm trạng của Thế Lữ cũng là tâm trạng chung của nhiều cây bút, nhiều trí thức đương thời.
=> Tóm lại, những đoạn thơ trên đã khắc họa một cách chân thực và sinh động nỗi đau vì bị mất tự do của con hổ. Qua đó, ta cảm nhận được thái độ sống ngao ngán, chán ghét cao độ của con người đối với xã hội nô lệ.
Nối để hoàn thành nội dung từng phần của tác phẩm Nhớ rừng:
NHỚ RỪNG
Lời con hổ ở vườn bách thú(1)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn(2), ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh(3) rừng thẳm,
Nay sa cơ(4), bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự(5).
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm(6), bóng cả(7), cây già,
Với tiếng gió gào ngàn(8), với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể(10) của muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn(11) ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt(12) nay còn đâu?
*
Nay ta ôm niềm uất hận(13) ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm(14),
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ(15)!
Là nơi giống hầm thiêng(16) ta ngự trị(17).
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn(18) to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
(Thế Lữ(*) trong Thi nhân Việt Nam,
Nguyễn Đức Phiên, xuất bản, Hà Nội, 1943)
(*) Thế Lữ (1907-1989) tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, quê ở Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1945) buổi đầu. Với một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho thơ mới. Ngoài sáng tác thơ, Thế Lữ còn viết truyện (truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng lãng mạn...). Sau đó, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và là một trong những người có công đầu xây dựng ngành kịch nói ở nước ta. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 2000). Tác phẩm chính: Mấy vần thơ (thơ, 1935), Vàng và máu (truyện, 1934), Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936), Lê Phong phóng viên (truyện, 1937)...
Nhớ rừng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của thơ mới.
(1) Vườn bách thú: công viên có nuôi nhốt các loại chim thú quý hiếm.
(2) Ngạo mạn: kiêu ngạo, coi thường người khác.
(3) Oai linh (hoặc uy linh): sức mạnh linh thiêng.
(4) Sa cơ: lâm vào cảnh không may, phải thất bại.
(5) Vô tư lự: không lo nghĩ.
(6) Sơn lâm: rừng núi (sơn: núi; lâm: rừng).
(7) Cả (từ cũ): lớn.
(8) Ngàn: rừng.
(9) Chúa tể: kẻ ở ngôi chủ, có quyền lực thống trị tối cao.
(10) Thảo hoa: hoa cỏ, cây cối (thảo: cỏ, hoa: hoa).
(11) Giang sơn: sông núi, chỉ đất đai có chủ quyền.
(12) Oanh liệt: (tiếng tăm) lừng lẫy, vang dội.
(13) Uất hận: căm giận, uất ức dồn nén trong lòng.
(14) Bí hiểm: dường như chứa đựng nguy hiểm khó dò biết.
(15) Hùng vĩ: to lớn, mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp gây ấn tượng về sự lớn lao, hùng mạnh (hùng: khí thế mạnh mẽ; vĩ: rất to lớn).
(16) Hầm thiêng (hoặc hùm thiêng): con hổ tinh khôn và dũng mãnh, được coi là linh thiêng.
(17) Ngự trị: chiếm địa vị thống trị cao nhất (thường dành để nói về vua chúa).
(18) Giấc mộng ngàn: mộng tưởng về chốn núi rừng.
Bài thơ trên là lời của ai?
Dòng nào sau đây nhận xét đúng về tâm trạng của con hổ được thể hiện ở khổ 1 của bài Nhớ rừng:
NHỚ RỪNG
Lời con hổ ở vườn bách thú(1)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn(2), ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh(3) rừng thẳm,
Nay sa cơ(4), bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự(5).
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm(6), bóng cả(7), cây già,
Với tiếng gió gào ngàn(8), với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể(9) của muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa(10) không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn(11) ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt(12) nay còn đâu?
*
Nay ta ôm niềm uất hận(13) ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm(14),
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ(15)!
Là nơi giống hầm thiêng(16) ta ngự trị(17).
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn(18) to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
(Thế Lữ(*) trong Thi nhân Việt Nam,
Nguyễn Đức Phiên, xuất bản, Hà Nội, 1943)
(*) Thế Lữ (1907-1989) tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, quê ở Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1945) buổi đầu. Với một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho thơ mới. Ngoài sáng tác thơ, Thế Lữ còn viết truyện (truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng lãng mạn...). Sau đó, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và là một trong những người có công đầu xây dựng ngành kịch nói ở nước ta. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 2000). Tác phẩm chính: Mấy vần thơ (thơ, 1935), Vàng và máu (truyện, 1934), Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936), Lê Phong phóng viên (truyện, 1937)...
Nhớ rừng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của thơ mới.
(1) Vườn bách thú: công viên có nuôi nhốt các loại chim thú quý hiếm.
(2) Ngạo mạn: kiêu ngạo, coi thường người khác.
(3) Oai linh (hoặc uy linh): sức mạnh linh thiêng.
(4) Sa cơ: lâm vào cảnh không may, phải thất bại.
(5) Vô tư lự: không lo nghĩ.
(6) Sơn lâm: rừng núi (sơn: núi; lâm: rừng).
(7) Cả (từ cũ): lớn.
(8) Ngàn: rừng.
(9) Chúa tể: kẻ ở ngôi chủ, có quyền lực thống trị tối cao.
(10) Thảo hoa: hoa cỏ, cây cối (thảo: cỏ, hoa: hoa).
(11) Giang sơn: sông núi, chỉ đất đai có chủ quyền.
(12) Oanh liệt: (tiếng tăm) lừng lẫy, vang dội.
(13) Uất hận: căm giận, uất ức dồn nén trong lòng.
(14) Bí hiểm: dường như chứa đựng nguy hiểm khó dò biết.
(15) Hùng vĩ: to lớn, mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp gây ấn tượng về sự lớn lao, hùng mạnh (hùng: khí thế mạnh mẽ; vĩ: rất to lớn).
(16) Hầm thiêng (hoặc hùm thiêng): con hổ tinh khôn và dũng mãnh, được coi là linh thiêng.
(17) Ngự trị: chiếm địa vị thống trị cao nhất (thường dành để nói về vua chúa).
(18) Giấc mộng ngàn: mộng tưởng về chốn núi rừng.
Nối để hoàn thiện những lí do khiến con hổ đau đớn.
Nhận xét nào sau đây không đúng về cảnh ngộ của con hổ trong khổ 3?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây