Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Bài Côn Sơn ca của tác giả nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Nguyễn Trãi là tác giả sống ở thời đại nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Bản dịch Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Côn Sơn là địa danh thuộc địa phương nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Hình ảnh nào sau đây không được nói đến trong đoạn trích Bài ca Côn Sơn?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Cảnh trí Côn Sơn mang vẻ đẹp gì?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Nhân vật trữ tình "ta" trong bài thơ là ai?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Nhân vật trữ tình "ta" trong bài thơ là người như thế nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Tiếng suối chảy và đá rêu phơi được tác giả so sánh với những gì?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Câu thơ trên sử dụng biện pháp tu từ nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Câu thơ "Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn" cho thấy phong thái gì của tác giả?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Các từ ngữ sau trong Bài ca Côn Sơn được điệp lại mấy lần?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Tác dụng của điệp từ được sử dụng trong Bài ca Côn Sơn là
Sắp xếp thứ tự các dòng thơ sau để hoàn thành đoạn thơ của bài Côn Sơn ca:
- Trong rừng có bóng trúc râm,
- Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
- Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
- Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống:
Với hình ảnh nhân vật "ta" giữa Côn Sơn nên thơ, hấp dẫn, đoạn thơ cho thấy sự trọn vẹn giữa con người với bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, thi sĩ của chính Nguyễn Trãi.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Bài ca Côn Sơn được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Từ 'ta' có mặt trong đoạn thơ mấy lần?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
"Ta" trong đoạn thơ là ai?
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca - trích)
Côn Sơn(1) suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm(2) bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông(3) mọc như nêm(4),
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm(5),
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Nguyễn Trãi(*), Nguyên văn chữ Hán,
Phan Võ - Lê Thước - Đào Phương Bình dịch,
trong Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Chú thích:
(*) Nguyễn Trãi (1380 - 1442): hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442; mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới (1980).
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong Nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám - tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối của câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung là cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc.
(1) Côn Sơn: thuộc thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, ở phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi đã sống ở đây từ khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 cho đến ngày bị hại (1442), dù là từ năm 1439 đã được vua Lê Thái Tông xuống chiếu vời ra giữ chức cũ.
(2) Đàn cầm: thứ đàn xưa có 5 dây, về sau thì có 7 dây.
(3) Thông: loại cây có thân thẳng và nhựa thơm, tán lá hình tháp, lá hình kim.
(4) Nêm: chêm hoặc lèn cho chặt (như trong nêm cối, chật như nêm). Ở đây muốn nói thông mọc rậm, dày.
(5) Râm: không có ánh mặt trời chiếu trực tiếp. Trúc bóng râm: trúc rậm, dày tạo nên bóng râm lúc trời nắng.
Trong đoạn thơ trên có những từ nào được điệp lại?
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây