Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Phiếu bài tập tuần 17 SVIP
Yêu cầu đăng nhập!
Bạn chưa đăng nhập. Hãy đăng nhập để làm bài thi tại đây!
Em hãy nhấp vào thành phần tình thái trong câu sau:
“Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều.”
(Kim Lân, Làng)
Em hãy nhấp vào thành phần tình thái trong câu sau:
“Ông lão bỗng ngừng lại ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được.”
(Kim Lân, Làng)
Em hãy nhấp vào thành phần cảm thán trong câu sau.
“Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.”
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Em hãy nối các câu sau theo mục đích giao tiếp mà nó mang lại.
Câu ca dao sau khuyên chúng ta nên thực hiện tốt phương châm giao tiếp nào?
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
Từ mặt trời in đậm trong cặp câu thơ sau được tác giả sử dụng biện pháp tu từ gì?
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.”
(Nguyễn Khoa Điềm, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)
Em hãy nhấp vào thành phần biệt lập trong đoạn văn sau.
“Giáo dục tức là giải phóng. Nó mở ra cánh cửa dẫn đến hoà bình, công bằng và công lí. Những người nắm giữ chìa khoá của cánh cửa này - các thầy, cô giáo, các bậc cha me, đặc biệt là những người mẹ - gánh một trách nhiệm vô cùng quan trọng, bởi vì cái thế giới mà chúng ta để lại cho các thế hệ mai sau sẽ tuỳ thuộc vào những trẻ em mà chúng ta để lại cho thế giới ấy…”
(Phê-đê-ri-cô May-o, Giáo dục - chìa khoá của tương lai)
Trong cặp câu thơ sau, đâu là từ tượng hình?
“…Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về…”
(Sang thu, Hữu Thỉnh)
NHỮNG ĐỨA TRẺ(*)
(Trích Thời thơ ấu)
Có đến gần một tuần(1) không thấy ba anh em nhà ấy(2) ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi(3) trên cây(4), nó gọi, giọng thân mật:
- Xuống đây chơi với chúng tớ!
Chúng tôi trèo lên cái xe trượt tuyết(5) cũ để ở dưới mái hiên nhà khô rồi vừa ngắm nghía nhau, vừa nói chuyện rất lâu.
- Các cậu có bị ăn đòn không?(6)
- Có! - Thằng anh lớn trả lời.
Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh đòn như tôi(7), tôi thấy tức thay cho chúng.
- Sao anh lại bắt chim? - Thằng bé thứ nhất hỏi.
- Vì chúng nó hót hay lắm.
- Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi đâu thì bay.
- Được, mình sẽ không bắt nữa!
- Nhưng anh hãy bắt cho em một con đã.
- Em muốn chim gì?
- Chim gì hót vui vui ấy. Để nhốt vào lồng.
- Thế thì chim bạch yến(8) nhé?
- Mèo nó bắt mất - Thằng thứ hai nói - Mà bố cũng chẳng cho nuôi.
Thằng anh lớn tán thành:
- Đúng đấy, bố chẳng cho nuôi đâu...
- Thế các cậu có mẹ không?
- Không - Thằng anh lớn đáp.
Nhưng thằng thứ hai chữa lại:
- Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn mẹ, mẹ chúng tớ chết rồi.
- Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ - Tôi hỏi.
Thằng anh lớn gật đầu:
- Ừ.
Và cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại.
Qua những truyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, nên tôi rất thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó. Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Tôi nhớ lại truyện mụ dì ghẻ phù thủy đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng:
- Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem!
Thằng anh lớn nhún vai:
- Chết rồi cơ mà, về làm sao được...
Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả(9) ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép(10) là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.
Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những câu chuyện của bà tôi. Lúc đầu, thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau đó nhẹ nhàng bảo:
- Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy chỉ là những truyện cổ tích...
Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn em nó cúi xuống.
Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà, bỗng trước mắt chúng tôi hiện ra một ông già(11) với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông.
- Đứa nào đây? - Ông ta hỏi và chỉ vào tôi.
Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông nói:
- Nó ở... bên kia sang...
- Đứa nào gọi nó sang?
Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn(12).
Ông già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng; ông ta làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng ông bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc òa lên thì đã ở ngoài đường rồi, còn ông ta đứng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói:
- Cấm không được đến nhà tao!
[...] Tôi vẫn tiếp tục chơi với mấy đứa trẻ ấy và cảm thấy rất vui thích. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó, tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào, mấy thằng bé, lần lượt từng đứa hay hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ xuống nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi.
Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi buồn lắm; chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể truyện cổ tích; tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Thấy thế bà tôi thường rất hài lòng.
Tôi cũng kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi; một hôm thằng lớn thở dài nói:
- Có lẽ tất cả các bà đều tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt...
Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời... dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả...
(M. Go-rơ-ki(*), Thời thơ ấu,
theo bản dịch của Trần Khuyến - Cẩm Tiêu, NXB Văn học, Hà Nội, 1976.
Tên bài do NBS đặt)
Chú thích:
(*) Mác-xim Go-rơ-ki (1868 - 1963) là bút danh của A-lếch-xây Pê-scốp, một trong những nhà văn lớn của Nga và của thế giới trong thế kỉ XX. Ông mồ côi bố khi mới ba tuổi và sống với ông bà ngoại; lớn lên, lại phải đi làm rất nhiều nghề để kiếm ăn. Bút danh M. Go-rơ-ki, theo tiếng Nga, có nghĩa là "cay đắng". M. Go-rơ-ki là tác giả của bộ ba tiểu thuyết tự thuật, loại tiểu thuyết nhà văn dùng ngôi thứ nhất (xưng "tôi") kể chuyện đời mình: Thời thơ ấu (1913 - 1914), Kiếm sống (1916), Những trường đại học của tôi (1923). Một tác phẩm quan trọng khác của ông là Người mẹ (1906 - 1907), tiểu thuyết viết về sự chuyển biến tư tưởng của nhân vật chính, một bà mẹ Nga, về phía chủ nghĩa xã hội.
Văn bản Những đứa trẻ trích trong chương IX tác phẩm Thời thơ ấu (gồm 13 chương). Dạo ấy, dưới thời Nga hoàng, A-li-ô-sa (tên thân mật thường gọi ở nhà của M. Go-rơ-ki) ở với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác. Bên hàng xóm là nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp đã già, sống với người vợ kế và ba đứa con nhỏ mồ côi mẹ khoảng trên mười tuổi, trạc tuổi với A-li-ô-sa. Do tình cờ có lần A-li-ô-sa cùng hai đứa lớn con ông đại tá kéo dây dàu lên cứu được đứa nhỏ chơi nghịch nhảy vào gàu rơi xuống giếng, nên mấy đứa trẻ chơi thân với A-li-ô-sa, bất chấp sự cấm đoán của bố. Đoạn trích Những đứa trẻ kể tiếp theo sự kiện ấy.
(1) Sau sự kiện thằng bé ngã xuống giếng.
(2) Ba đứa trẻ con đại tá.
(3) Nhân vật người kể chuyện, ở đây là M. Go-rơ-ki.
(4) Cái cây bên nhà A-li-ô-sa sát ngay hàng rào nhà đại tá.
(5) Xe trượt tuyết: loại xe không có bánh, di chuyển bằng cách trượt lên tuyết ở những miền băng giá.
(6) Bị đòn vì chơi đùa nghịch ngợm để thằng em ngã xuống giếng.
(7) Ông ngoại của A-li-ô-sa là người rất khó tính, nên A-li-ô-sa thường bị đe nẹt và ăn đòn một cách oan uổng.
(8) Chim bạch yến: loài chim yến lông trắng muốt, hót rất hay.
(9) Xả: chặt ra thành từng mảnh lớn.
(10) Nước phép: loại nước thuốc có thể làm cho người chết sống lại.
(11) Đại tá Ốp-xi-an-cốp, bố của ba đứa trẻ.
(12) Ở đoạn trước khi xảy ra chuyện thằng bé ngã xuống giếng, A-li-ô-sa đang ngồi trên cành cây nhìn mấy đứa trẻ chơi ngoài sân thì nghe tiếng đại tá ở trong nhà gọi các con vào, M. Go-rơ-ki kể: "Chúng thong thả và ngoan ngoãn đi vào hệt như những chú ngỗng".
Em hãy đọc văn bản trên và trả lời câu hỏi.
Tác giả Mác-xim Go-rơ-ki xuất thân trong gia đình thế nào?
Văn bản “Những đứa trẻ” được trích từ tác phẩm nào?
Đoạn trích “Những đứa trẻ” được kể theo ngôi kể nào?
Nội dung của đoạn trích "Những đứa trẻ" là gì?
Trong con mắt của nhân vật “tôi”, ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp hiện lên là một người như thế nào?
Những đứa trẻ trong đoạn trích có điểm gì chung?
Câu: “Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con” sử dụng biện pháp nghệ thuật gì?
Em hãy nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.