K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:                        Đêm hè Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn, Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn. Bối rối tình duyên cơn gió thoảng, Nhạt nhèo quanh cảnh bóng trăng suông.  Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện, Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng. Ngủ quách sự đời thây kẻ thức, Chùa đâu chú trọc đã hồi chuông.                               (Thơ văn...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

                      Đêm hè

Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng,
Nhạt nhèo quanh cảnh bóng trăng suông. 
Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng.
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức,
Chùa đâu chú trọc đã hồi chuông. 

                             (Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, 1984)

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ.

Câu 2. Chỉ ra những cảm xúc, tâm trạng được thể hiện trong bài thơ.

Câu 3. Dòng thơ đầu: Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn, đã gợi lên cho em những cảm nhận, suy nghĩ gì?

Câu 4. Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ hai dòng thơ: Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện,/ Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng.

Câu 5. Qua bài thơ, Tú Xương hiện lên với vẻ đẹp nào?

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Thị Phương: (Hát tiếp) - Người chồng tôi tên gọi Trương Viên                                        Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng                                        Bởi vì đâu chếch nón ả Hằng                                        Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời                                        Bởi vì đâu binh lửa bời...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Thị Phương: (Hát tiếp) - Người chồng tôi tên gọi Trương Viên

                                       Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng

                                       Bởi vì đâu chếch nón ả Hằng

                                       Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời

                                       Bởi vì đâu binh lửa bời bời

                                       Xa miền quê quán, ngụ nơi lâm tuyền

                                       Một mình tôi nuôi mẹ truân chuyên

                                       Quyết liều phận bạc chẳng dám quên ngãi chàng

                                       Gặp những loài ác thú hổ lang

                                       Người rắp làm hại, khấn kêu vang lại lành

                                       Trở ra về qua miếu thần linh

                                       Thần đòi khoét mắt lòng thành tôi kính dâng

                                       Vậy nên mù mịt tối tăm

                                       Nàng tiên dạy hát, kiếm ăn qua tháng ngày.

                                       Sự tình này trời đất có thấu hay

                                       Chàng Trương Viên có biết nông nỗi này cho chăng?

Trương Viên:                - Nghe tiếng đàn cùng tiếng hát

                                       Chuyển động tâm thần

                                       Đường từ mẫu có biết chăng, hỡi mẹ?

Thị Phương: (Nói sử)   - Tiền ông thưởng tôi còn để đó

                                       Tôi chẳng hề tiêu đụng một phân

                                       Xin ông dùng nói chuyện tần ngần

                                       Mà tôi mang tiếng không thanh danh tiết

Trương Viên:                - Tưởng là nhận vợ, vợ lại chẳng nhìn

                                       Đường từ mẫu có biết chăng, hỡi mẹ ? (Nói sử)

Mụ:                               - Ới con ơi,

                                       Con đừng nói nữa, trước tủi chồng, sau tủi mẹ.

Thị Phương: (Nói sử)   - Thực chồng con đã tỏ

                                       Hình dạng như in

                                       Nào trước khi phu phụ hợp hôn

                                       Những của ấy đưa ra nhận tích.

Mụ:                              - Ơi này con, vợ con nói: ngày xưa quan Thừa tướng có cho cái gì làm ghi tích không, con đưa cho vợ nó xem để nó nhận.

Trương Viên:                - Anh khá khen em mười tám năm nay chẳng có đơn sai

                                       Lòng thương em nhớ mẹ ngậm ngùi.

                                       Đây, ngọc kim quyết giao em nhận tích

(Thị Phương cầm ngọc, ngọc nhẩy lên mắt, mắt sáng trở lại.)

Thị Phương:                 - Quả lòng trời lại đưa lại

                                       Ngọc nhảy vào, mắt được phong quang

                                       Mẹ ơi giờ con trông được rõ ràng

                                       Chồng con đây đã tỏ.

Mụ:                               - Mẹ mừng con đã yên lành như cũ

                                       Lại thêm mẫu tử đoàn viên

                                       Trời có đâu nỡ phụ người hiền

                                       Thế mới biết bĩ rồi lại thái.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

Câu 1. Chỉ ra lối nói xuất hiện trong văn bản. 

Câu 2. Chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản trên. 

Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của các chỉ dẫn sân khấu trong tác phẩm. 

Câu 4. Trong lời hát của Thị Phương, nàng đã nhắc đến những sự việc nào trong suốt 18 năm lưu lạc?

Câu 5. Ý nghĩa và thông điệp của văn bản trên là gì?

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến   Ảnh: Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm của mảnh đất Thủ đô ngàn...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

Ngữ văn 10, Văn bản thông tin, olm 

Ảnh: Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm của mảnh đất Thủ đô ngàn năm văn hiến, những phần hư hỏng của Cột cờ đã được trùng tu lại, nhưng vẫn giữ được hiện trạng ban đầu. Và Cột cờ Hà Nội hiện nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. 

      Cột cờ Hà Nội trước đây còn có tên gọi Kỳ đài Hà Nội. Thời nhà Nguyễn, Kỳ đài còn có chức năng là vọng canh, vì theo trục bắc-nam, kiến trúc này chỉ cách Đoan Môn khoảng 300m, cách điện Kính Thiên 500m và cách cửa Bắc chừng gần 1.000m. Từ trên đỉnh của kỳ đài có thể quan sát cả một vùng khá rộng trong và ngoài khu thành cổ.

      Nhìn tổng thể cột cờ gồm những khối lăng trụ xếp chồng nhau, cao thót dần từ dưới lên trên. Bố cục cân đối ấy đã tạo những đường nét thẳng, khoẻ khoắn, vững vàng. Đứng dưới chân cột cờ, dù cảm thấy đỉnh cao ngất, nhưng không hề có cảm giác nặng nề, mà trái lại, dáng vẻ của nó hài hoà, thanh thoát giữa các tam cấp, thân cột và vọng canh. Ở mỗi cấp, tường xây được trang trí bằng những hoa văn khác nhau, tuy đơn giản nhưng lại tạo ra những đường nét mềm mại và mang vẻ đẹp riêng cho từng cấp.

      Công trình kiến trúc cổ kính này được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một, mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có 2 cầu thang bằng gạch cổ dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa thông gió, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không đề chữ. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m, có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Ở cửa hướng bắc được bố trí hai cầu thang lên sân thượng phía bên phải và trái, mỗi cầu thang gồm 14 bậc, có tay vịn bằng sắt. Sân thượng được bao quanh bằng lan can gỗ cùng với tường hoa trổ những hình lục giác có hình vuông ở giữa, được đan lồng với nhau trông tựa hình mạng nhện. 

      Trên tầng này là phần thân của cột cờ, cao 18,2m; hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có 54 bậc cầu thang xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình hoa thị và 6 lỗ hình dẻ quạt. Những lỗ này được đặt dọc các mặt, mỗi mặt có từ 4 đến 5 lỗ. Nhờ có các lỗ thông hơi chạy xung quanh thân cột nên ánh sáng tự nhiên và không khí lúc nào cũng được thông thoáng.

      Đỉnh Cột Cờ (Vọng canh) được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa sổ tương ứng với tám mặt, có thể đủ cho 5-6 người đứng quan sát. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4m, cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Phần mái giống như hình nón đội, xương mái làm bằng bê tông cốt thép, lợp ngói và giữa đỉnh mái có cột sắt cùng với ròng rọc để treo cờ.

      Toàn bộ cột cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ là 41,4m. Điều đặc biệt của cột cờ là giữa những ngày Hà Nội nóng nhất, nhiệt độ bên trong cột cờ vẫn luôn mát mẻ như có máy lạnh. Hơn nữa, kết cấu các cửa lên xuống của cột cờ được xây dựng rất khoa học, mỗi khi trời mưa to, nước cũng không thể chảy vào trong lòng tháp.

      Biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

      Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được treo lên Cột cờ Hà Nội. Chính vì vậy, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, hình ảnh Cột cờ Hà Nội đã được in trang trọng trên đồng tiền được phát hành đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

      Đến ngày 10-10-1954, Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn - ngày Thủ đô Hà Nội hoàn toàn được giải phóng. Cả Hà Nội dồn về cột cờ chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, khi còi Nhà hát Thành phố nổi lên, Đoàn quân nhạc cử Quốc ca, cờ Tổ quốc - lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cờ Tổ quốc lại tung bay hiên ngang trên bầu trời lộng gió của thủ đô Hà Nội. 

      Giờ đây, Cột cờ Hà Nội là một điểm du lịch không thể bỏ qua trong hành trình khám phá lịch sử đất Hà Thành. Theo thống kê của Ban Quản lý Khu di tích Cột cờ - Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, mỗi ngày có 1.000 - 2.000 du khách đến thăm quan cụm di tích (Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam và Cột cờ Hà Nội) này. Điểm di tích này mở cửa tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai và thứ năm đóng cửa để bảo dưỡng. 

      Hơn 60 năm qua, gắn trên đỉnh Cột cờ Hà Nội là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay trên nền trời của Thủ đô, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do.

      Được khởi công xây dựng từ năm 1805 và hoàn thành vào năm 1812, cột cờ Hà Nội là một trong những công trình kiến trúc làm nên dáng vóc của Hà Nội thời bấy giờ. Đến nay, cột cờ Hà Nội không chỉ là một biểu tượng hùng thiêng của Thủ đô, mà còn là một điểm đến du lịch không thể bỏ qua của Hà Thành. Năm 1989, cột cờ Hà Nội được công nhận là di tích lịch sử và thu hút được nhiều du khách tới thăm quan khi đến với Hà Nội. 

Lan Khanh (tổng hợp) 

Câu 1. Văn bản trên giới thiệu về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nào?

Câu 2. Nhan đề của văn bản thể hiện sự đánh giá như thế nào về Cột cờ Hà Nội?

Câu 3. Các đề mục nhỏ và nội dung của văn bản đã triển khai vấn đề được đưa ra ở nhan đề như thế nào? 

Câu 4. Theo em, vì sao văn bản Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến lại được coi là văn bản thông tin tổng hợp?

Câu 5. Phân tích tác dụng của các phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản. 

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Tiền tài như phấn thổ?  Tiền tài như phấn thổ Nghĩa trọng tợ thiên kim Con le le mấy thuở chết chìm Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi?       Khi còn nhỏ, tôi thường nghe mẹ hát như vậy. Phấn thổ tức là bụi đất. Cứ theo câu "trọng nghĩa khinh tài" mà giải, tiền bạc quả thật là đáng xem thường.        Thời gian qua đi, tôi lớn...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Tiền tài như phấn thổ? 

Tiền tài như phấn thổ
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi?

      Khi còn nhỏ, tôi thường nghe mẹ hát như vậy. Phấn thổ tức là bụi đất. Cứ theo câu "trọng nghĩa khinh tài" mà giải, tiền bạc quả thật là đáng xem thường. 

      Thời gian qua đi, tôi lớn lên và nhìn thấy cuộc đời dường như không giống câu ca dao mẹ hát. Chúng ta vẫn được dạy rằng đồng tiền dễ làm tha hóa con người, rằng hãy tránh xa những người xem đồng tiền là trọng. Nhưng tôi chưa từng thấy ai kiềm tiền bằng trí lực của mình một cách chính đáng mà không xem trọng đồng tiền, dù họ giàu hay nghèo. Người ta nói đồng tiền là nguồn gốc của tội lỗi, nhưng nếu đúng như vậy thì tại sao nhà thờ và nhà chùa vẫn tiếp nhận nó như một thứ lễ vật?

      Chúng ta thường có cái nhìn ngưỡng mộ khi nghe ai đó nói rằng: "Tôi không quan tâm đến tiền bạc", nhưng rồi tôi đọc được câu này của Oscar Wilde: "Khi còn trẻ, tôi thường nghĩ rằng tiền bạc là thứ quan trọng nhất trong đời sống, bây giờ khi tôi già, tôi biết là đúng như vậy".

      Tôi đã sống qua nhiều năm tháng mới nhận ra bản chất của đồng tiền, và tôi ước gì khi tôi mới mười bảy tuổi, có ai đó nói cho tôi biết ý nghĩa đích thực của tiền, thứ mà chúng ta sẽ chạm đến mỗi ngày trong suốt cuộc đời, thậm chí có thể nhiều gấp nhiều lần chạm vào bàn tay người mình thương yêu.

      Tôi thực sự ưa thích cách nhìn về đồng tiền của nhân vật Francisco de Anconia trong tiểu thuyết Atlas Shrugged (Ayn Rand). Nhà tư bản công nghiệp này nói rẳng: "Tiền bạc đòi hỏi anh nhận ra rằng con người phải làm việc để đạt được lợi ích chứ không phải để chịu tổn hại... Những người thật sự ham mê tiền bạc nỗ lực làm việc để kiếm được tiển, và họ biết rằng mình xứng đáng có được nó".

      Phải chăng chúng ta nên trả lại cho tiền khuôn mặt giản dị của nó: Một công cụ dùng để trao đổi các giá trị tương xứng. Đừng khoác cho nó uy lực mà nó không có, cũng đừng gán cho nó tội lỗi mà nó không phạm. Cái làm con người sa ngã không phải là sức mạnh của đồng tiền, mà là những tham vọng không chính đáng của chính bản thân ta: Có được những thứ không phải của mình, sở hữu những thứ vượt quá công sức của mình, danh tiếng mà mình không xứng đáng, vật chất mà mình chưa đủ khả năng mua...

      Mẹ tôi dạy rằng hãy luôn xài ít hơn số tiền mình kiếm được. Trong khi phần đông chúng ta thường xài nhiều hơn số tiền mình làm ra. Một người bạn của tôi tâm sự rằng đôi khi cô thấy mình là kẻ ngốc, vì sung sướng nhét một đống Credit Card(1) trong ví để rồi mua những thứ mình không cần, bằng số tiền mình không có (mà vay qua credit card), cốt chỉ để chứng tỏ với những người không quen. Sau đó è cổ ra cày trả nợ. Có phải là vô nghĩa hay không? Đó cũng là sự khác nhau giữa Credit Card và Debit Card(2). Tôi ghi nhớ kinh nghiệm đau thương của cô nên quyết định làm Debit Card thay vì Credit Card. Có nhiều xài nhiều, có ít xài ít, không có thì đi "window shopping"(3) cho vui vậy thôi. Ngân hàng chắc buồn nhưng tôi thì ngủ yên. 

      Trong bài hát This is the Life của Al Yankovic có một câu rất hay: "So if money can't buy happiness, I guess I'll have to rent it" (Nếu tiền không thể mua được hạnh phúc, chắc tôi phải thuê thôi). Nhưng tôi tin rằng cái gì người ta có bán thì tiền đều có thể mua được. Chắc chắn như vậy. "Tiền không mua được hạnh phúc" chẳng phải vì tiền không có đủ sức mạnh mà vì không ai bán hạnh phúc. Giả sử tôi có đủ tiền để trả cho hạnh phúc của bạn, và nếu bạn thực sự hạnh phúc, bạn có bán nó cho tôi không? Người ta dám bán cả các ngôi sao trên trời nhưng tôi tin không ai bán hạnh phúc nếu như họ có nó.

      Ngoại trừ trong các quảng cáo. Tôi thấy trên Internet người ta bán một căn nhà vách đất ở miền nông thôn
nước Pháp với lời rao: "Chúng tôi bán hạnh phúc, và bạn đan được miễn phí ngôi nhà". Thật tài tình. Đó là lý do khiến chúng ta gần như phát điên lên vì shopping. Áo quần, xe cộ, đồ hi-tech... Nhưng vấn đề nằm ở chỗ đôi khi ta không biết chắc mình đang mua cái gì. Có khi nào bạn trả tiền cho một chiếc mũ bảo hiểm và nghĩ rằng mình đã mua được sự an toàn tuyệt đối không? Chúng ta vẫn nghe nhắc rằng: "Tiền có thể mua được ngôi nhà nhưng không mua được gia đình; mua được thuốc men nhưng không mua được sức khỏe; mua được sách nhưng không mua được tri thức; mua được chức tước nhưng không mua được sự kính trọng...". Đó là những lời thực sự đáng ghi nhớ. 

      Một người quen của tôi có cái bình sứ do tổ tiên để lại, vẫn dùng để cắm hoa trên bàn thờ. Một hôm có người hỏi mua, anh mừng quá bán luôn. Sau anh mới biết cái bình đáng giá gấp 30 lần số tiền anh được trả. Quả đắng ấy anh nuốt mãi không trôi.

      Điều tương tự cũng có thể xảy ra với những giá trị khác. Giả sử người ta có thể mua bán tình yêu, tình bạn, danh dự... Hãy cho tôi biết đổi tình bạn lấy một cái nhà là lợi hay thiệt? Nếu đổi tình yêu lấy danh tiếng? Hay hạnh phúc gia đình lấy địa vị xã hội? Đổi mối tình chân thật lấy một bóng sắc thoáng qua? Đổi sự tôn trọng lấy những lời tung hô? Đổi sự chính trực để lấy vài trăm triệu đồng thì khôn ngoan hay là không? Hạnh phúc của người yêu ta với hạnh phúc của người ta yêu, bên nào nhẹ hơn, bên nào thì nặng? Câu trả lời có thể khác nhau với mỗi người, nhưng có một sự thật là việc đánh giá sai giá trị của "món hàng" không những khiến ta bị thiệt hại mà còn khiến người khác nhìn ta như một kẻ thiếu khôn ngoan. Nhiều bi kịch xảy ra chỉ vì người ta đánh giá sai các giá trị khi đổi chác, những tiếc nuối, xót xa, hối hận, giày vò cũng bắt đầu từ đó. Vậy thì hãy sai bản chấc rằng ta đánh giá đúng giá trị của những gì mình muốn mua, hoặc bán. Để sau một cuộc đối chắc thứ có được vẫn tương xứng với những gì mà ta đã trao đi.

"Tiền tài như phấn thổ"

      Tôi hỏi mẹ sao cứ hát hoài câu đó, vì tôi không thể coi đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình như bụi đất được. Mẹ tôi trả lời rằng câu hát ấy không có ý nói tiền là thứ đáng coi khinh. Nó chỉ nhắc ta nhớ rằng: Đồng tiền có thể bị mất giá, nên những gì tiền mua được cũng có thể bị mất giá. Những tờ tiền có thể tan thành bụi đất, và những thứ mua được bằng tiền cũng vậy.

(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, NXB Thế giới, 2022, tr.148 - 153)

Chú thích: 

(1) Credit Card: Loại thẻ tín dụng dùng trước trả sau.

(2) Debit Card: Loại thẻ tín dụng có bao nhiêu tiền chỉ dùng được bấy nhiêu.

(3) Window shopping: Đi xem hàng chứ không mua. 

Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Câu 2. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Câu 3. Mục đích của tác giả qua văn bản trên là gì?

Câu 4. Nhận xét về cách lập luận, dẫn dắt của tác giả trong văn bản.

Câu 5. Em có suy nghĩ như thế nào về đoạn văn sau: Phải chăng chúng ta nên trả lại cho tiền khuôn mặt giản dị của nó: Một công cụ dùng để trao đổi các giá trị tương xứng. Đừng khoác cho nó uy lực mà nó không có, cũng đừng gán cho nó tội lỗi mà nó không phạm. Cái làm con người sa ngã không phải là sức mạnh của đồng tiền, mà là những tham vọng không chính đáng của chính bản thân ta: Có được những thứ không phải của mình, sở hữu những thứ vượt quá công sức của mình, danh tiếng mà mình không xứng đáng, vật chất mà mình chưa đủ khả năng mua...?

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Huế đón bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO       Ngày 23/11, tại sân Đại triều điện Thái Hòa - Đại nội Huế (TP Huế) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức lễ đón bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO cho “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế”, công bố hoàn thành dự án “Bảo tồn, tu bổ tổng thể di tích...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Huế đón bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO

      Ngày 23/11, tại sân Đại triều điện Thái Hòa - Đại nội Huế (TP Huế) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức lễ đón bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO cho “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế”, công bố hoàn thành dự án “Bảo tồn, tu bổ tổng thể di tích điện Thái Hoà” và động thổ công trình “Tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích điện Cần Chánh”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp 79 năm ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2024).

Ngữ văn 10, Đọc hiểu văn bản thông tin, olm 

Ảnh: Trao bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO cho "Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế"  

      Đến dự có Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long, Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế, Lê Trường Lưu, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Văn Phương, ông Nguyễn Khoa Điềm - Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương, ông Jonathan Wallace Baker - Trưởng Đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương…

      Cửu Đỉnh - Hoàng cung Huế do vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào năm 1835 - 1837 và được đặt trước sân Thế Tổ Miếu nhằm biểu thị sự trường tồn của triều đại, sự giàu đẹp và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Cửu Đỉnh - Hoàng cung Huế thể hiện trình độ đúc đồng tinh xảo của những người thợ thủ công ở Việt Nam với 162 họa tiết chạm khắc nhiều chủ đề khác nhau trên Cửu Đỉnh cùng nhiều giá trị ẩn sâu phía sau đã đưa Cửu Đỉnh vượt ra ngoài tầm vóc của quốc gia. Đây là nguồn tư liệu độc đáo, quý hiếm được giới nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài rất quan tâm bởi nó mang giá trị nội dung về lịch sử, văn hóa giáo dục, địa lý, phong thủy, y dược, nghệ thuật thư pháp.

      Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng đã lưu trữ các giá trị về mối quan hệ giao thoa và tiếp xúc văn hóa xã hội của đất nước Việt Nam với các quốc gia trong khu vực Đông Á. Song hành cùng những thăng trầm của một triều đại, với bao biến cố của thời cuộc và biến thiên của thời gian vẫn còn vẹn nguyên tượng trưng cho vương quyền và sự tồn tại của triều đại phong kiến ở các nước Á đông.

      Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Văn Phương - Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, trong lịch sử Việt Nam, Huế từng là trung tâm văn hóa chính trị của xứ Đàng Trong vào thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất. Dưới bàn tay của các nghệ nhân, của các thợ lành nghề và công sức, trí tuệ, tài năng của cả dân tộc Việt Nam đã để lại cho Huế một quần thể kiến trúc tiêu biểu với sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc và thiên nhiên, là bức tranh rõ nét về chân dung kinh đô xưa của Việt Nam, mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam, chứa đựng những sắc thái văn hoá rất riêng của vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế.

     Cũng tại buổi lễ, tỉnh Thừa Thiên Huế đã công bố hoàn thành dự án “Bảo tồn, tu bổ tổng thể di tích điện Thái Hoà” và động thổ công trình “Tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích điện Cần Chánh”.

(Theo Báo Văn nghệ, ngày 24/11/2024)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên.

Câu 2. Sự việc chính nào được đề cập trong văn bản?

Câu 3. Theo em, vì sao văn bản Huế đón bằng công nhận Di sản Tư liệu của UNESCO lại được coi là một bản tin?

Câu 4. Mục đích của tác giả qua bài viết này là gì?

Câu 5. Chỉ ra và phân tích tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản. 

0